CHỨNG HEN VÀ THUỐC ĐIỀU TRỊ
GS. NGUYỄN KHANG
Hen là một bệnh lý do 
	nhiều yếu tố gây nên trên một cơ địa di truyền bẩm sinh. Do có nhiều yếu tố 
	gây nên, việc phòng chống hen trở thành khó khăn.
Hen có nguồn gốc dị ứng ở 
	50% trường hợp, đặc biệt ở trẻ em và thanh niên. Nguồn gốc dị ứng có thể xác 
	nhận bằng những xét nghiệm trên da. Các phần tử nhỏ lơ lửng trong không khí 
	như bụi, phấn hoa, các chất gây ô nhiễm là những dị ứng nguyên thường gặp. 
	Có thể còn những yếu tố khác như: cố gắng lao động, nhiễm siêu khuẩn (nhất 
	là ở trẻ em), bị lạnh, căng thẳng tinh thần (stress), hút thuốc lá hay ngửi 
	phải khói thuốc lá (thụ động), phụ nữ có mang, môi trường nghề nghiệp (như 
	bột mì ở các nhà sản xuất bánh mì), isocyanat và anhydrid phtalic có trong 
	sơn).
Về triệu chứng sinh lý 
	bệnh, ta thấy:
- Co thắt cơ trơn của phế 
	quản.
- Viêm gây nên sự tăng 
	tiết chất nhầy và tăng hoạt độ của phế quản.
Thuốc điều trị
Mục tiêu của điều trị 
	chứng hen là bình thường hóa chức năng hô hấp và tạo cho bệnh nhân điều kiện 
	sống bình thường được thoải mái.
Việc đầu tiên là xác định 
	mức độ nặng nhẹ của chứng hen cho từng bệnh nhân, căn cứ vào:
- Tần số của cơn hen.
- Hô hấp có bị trở ngại 
	kéo dài giữa các cơn hen không.
- Thăm dò chức năng hô 
	hấp.
Thuốc điều trị không đúng 
	liều gây nguy cơ cho bệnh nhân, làm bệnh nhân phải vào viện. Vì vậy cần có 
	thầy thuốc theo dõi chứng bệnh giảm hay tăng lên, thường phải dùng thuốc tùy 
	theo mức độ của bệnh hen.
1. Khi bị hen gián 
	đoạn: Ít hơn 1 
	cơn hen cho mỗi tuần và không có triệu chứng lâm sàng giữa 2 cơn hen.
Bác sĩ sẽ lựa chọn trong 
	các loại thuốc "giống tác dụng beta-2", có tác dụng kích thích thụ thể 
	beta-2, ở vị trí chủ yếu của phế quản, làm thư giãn cơ trơn.
- Có loại thuốc khi dùng 
	ngắn hạn (4 đến 6 giờ) (như Salbutamol, Terbutalin, Pirbuterol v.v.) hay hít 
	bột (như Salbutamol, Terbutalin).
- Có loại thuốc có tác 
	dụng dài hạn (12giờ) là khí dung (như Salmétérol) hay hít bột (như 
	Formotérol).
2. Khi bị hen mạn tính 
	nhẹ: Ít hơn 2 
	cơn hen mỗi tuần, ít hơn 2 lần gây khó chịu ban đêm, không có triệu chứng 
	lâm sàng giữa các cơn hen. Bác sĩ sẽ cân nhắc, cho dùng các loại thuốc: 
- Thuốc "giống tác dụng 
	beta-2" dạng hít đã nói ở trên.
- Các thuốc Corticoid hít 
	ở liều thấp. Đây là loại thuốc chống viêm ức chế các chất hóa học trung gian 
	gây viêm, giảm tiết chất nhầy v.v...; thuốc bắt đầu có tác dụng trong khoảng 
	2 - 8 giờ sau khi hít và bệnh được cải thiện về lâm sàng sau nhiều tuần điều 
	trị.
- Các thuốc Cromon (như 
	Cromoglicat natri) hay néclo cromil; thuốc này có tác dụng chống viêm thấp 
	hơn glucocorticòid đã nói trên, nhưng có ưu điểm là không có độc tính.
3. Hen mạn tính loại 
	vừa: Bị nhiều 
	hơn 2 cơn hen mỗi tuần, nhiều hơn 2 lần bị khó chịu ban đêm, bắt đầu có vài 
	triệu chứng lâm sàng giữa các cơn hen.
Bác sĩ sẽ lựa chọn dùng 
	các thuốc sau đây: 
- Thuốc "giống tác dụng 
	beta-2" đã nói ở trên, có tác dụng kéo dài ở dạng hít hoặc dạng uống.
- Khi bị hen ban đêm, 
	thường dùng các thuốc kháng tiết cholin.
- Dùng các dạng thuốc có 
	theo phyllin (để giãn phế quản).
- Các thuốc kháng 
	lencotrien (như Singular) là chất đối kháng với thụ thể của lencotrien (là 
	những chất trung gian gây viêm). Tác dụng của thuốc kháng lencotrien có thể 
	so sánh với thuốc chống viêm corticoid khi uống ở liều thấp.
4. Hen nặng: Có biểu hiện lên cơn nhiều, thường 
	bị hen ban đêm. Ở trường hợp này phải dùng thuốc chống viêm corticoid ở liều 
	cao, các thuốc kích thích beta-2 đã nói ở trên kết hợp với uống các thuốc 
	chống hen.
Tóm lại, hen là bệnh lý 
	hô hấp mạn tính do viêm, có thể có những giai đoạn kịch phát với sự co thắt 
	của cơ trên ở phế quản.
Ngay ở Pháp, thống kê cho 
	thấy hen là chứng bệnh của 3 triệu người và gây nên 2000 ca tử vong hàng 
	năm. Hen còn là bệnh lý mạn tính phổ biến nhất ở trẻ em.
Gia đình có bệnh nhân bị 
	chứng hen cần quan tâm phòng tránh các môi trường gây bệnh kết hợp với điều 
	trị ngay khi chống hen còn ở trạng thái nhẹ.