CÁC PHƯƠNG PHÁP CẬN LÂM SÀNG GAN MẬT

Các phương pháp khám cận lâm sàng gan mật được phát triển rất nhiều trong những năm gần đây  nhất là về phương diện thăm dò  hìnht háu và thăm dò chức năng kết hợp  với các phương pháp  kinh điển đã giúp cho  sự chẩn đoán  các bệnh gan mật càng ngày càng thêm chắc chắn và chính xác.  Trên cơ sở  các chẩn đoán chắc chắn và chính xác đó, người ta mới áp dụng  được các phương pháp điều trị tích cực để chữa một số bệnh mà trước đây coi như là nan giải (ví dụ: cắt gan để chữa ung thư như gan tiên phát ).

1. Thăm dò hình thái.

Phương pháp lâm sàng bằng sờ, gõ chỉ cho ta nhận định được  tình trạng của gan khi nó to, nhô ra khỏi bờ sườn: và ngay cả trong trường hợp đấy, chúng ta cũng chỉ sờ và gõ được phần mặt gan nhô ra khỏi bờ sườn, nghĩa là không nhận định được.

- Phần của mặt trước và trên gan nằm dưới cơ hoành.

- Mặt dưới của gan.

- Trong lòng của gan.

Các phương pháp thăm dò hình thái đã khắc phục được nhược điểm  đó của lâm sàng: đấy là phương pháp Xquang đồng vị phóng xạ và soi ổ bụng.

1.1. Phương pháp Xquang.

1.1.1. Chụp gan ở xa. (teléradiographie hépatique):  để người bệnh cách xa máy  chụp một khoảng nhất định  và chụp vùng gan. Phương pháp này giúp ta nhận định được  kích thước của gan để đánh giá được mức độ to nhỏ.

1.1.2. Chụp gan sau khi bơm hơi màng bụng: chụp vùng gan sau khi đã bơm vào ổ bụng  độ 1 lít oxy, để gây một liềm hơi  tách mặt  trên gan khỏi sát vào cơ hoành. Có thể làm đơn thuần, hoặc kết hợp với các phương pháp trên, hoặc kết hợp với bơm hơi vào đại tràng để có một lớp hơi làm ranh gioới  rõ rệt cho bờ  dưới của gan như thế không những nhận định được mặt trên của gan  nhờ có liềm hơi  mà còn nhận định  được kích thước  của gan  một cách rõ ràng  nhờ có liềm hơi giới hạn  bờ trên của gan  và lớp hơi đại tràng  giới hạn bờ dưới của gan.

1.1.3. Chụp hệ thống cửa: chụp bụng của người bệnh ở vùng ngang gan và lách sau khi đã tiêm vào  hệ thống cửa  một loại thuốc cản quang  có iot qua một kim chọc vào lách: thuốc cản quang sẽ làm xuất hiện  rõ vùng rốn lách, tĩnh mạch cửa cùng với  các tuần hoàn bàng hệ  nếu có  và bóng gan. Phim chụp hệ thống thường chia làm 3 thì:

- Thì tĩnh mạch cửa (khi thuốc cản quang mới còn ở tĩnh mạch cửa):  để nhận định tình trạng tĩnh mạch cửa. Bình thường tĩnh mạch cửa xuất hiện  thành một vệt rộng khoảng 1 cm lúc đầu đi từ lách xuống  và hướng về bên phải, sau đó đi chệch  lên trên về gan: không  thầy thuốc cản quang đi ngược vào  các nhánh khác của tĩnh mạch  cửa ( tĩnh mạch treo lớn và nhỏ).

- Thì tĩnh mạch trong gan: Khi thuốc cản quang  vào tới các tĩnh mạch  trong gan), các nhánh cửa trong gan  xuất hiện phân chia đều khắp vùng gan. Giúp ta nhận định hình thái của nhu mô gan: các nhánh cửa trong gan  bị cắt đoạn nếu trong nhu mô gan có u lành hoặc ác tính: các nhánh đó bị xơ xác  nếu gan xơ.

- Thì mao mạch:  thuốc cản quang vào các mao mạch của gan lkàm xuất hiện toàn bộ bóng gan và do đ1o cũng giúp ta nhận định kích thước của gan và cả nhu mô  gan (sẽ có hình khuyết trong  bóng gan  nếu có u ).

1.1.4. Chụp động mạch chủ bụng hoặc chụp  động mạch thân tạng: bơm thuốc cản quang vào động mạch chủ bụng qua một ống thông  đưa vào động mạch chủ  bụng. Các nhánh của động mạch gan sẽ xuất hiện  rõ. Giúp chúng ta phân biệt  u ở trong gan có tínhc hất lành hay ác tính: nếu là u ác tính thì ngoài các nhánh  của động mạch gan ra, còn có thêm nhiều mao mạch tân tạo ở vùng u ác tính.

1.1.5. Để nhận định túi mật và hệ thống  dẫn mật: chúng ta có:

- Chụp túi mật không thuốc cản quang: thường không thấy được bóng túi mật,  phương pháp này được chỉ định trong các trường hợp nghi ngờ sỏi  mật. Ngay cả những trường hợp này, cũng ít khi  thấy được hình sỏi  vì phần lớn sỏi mật không cản quang. Trong một số  ít trường hợp  sỏi sẽ xuất hiện hình một bóng, ít khi đơn độc vì thường có nhiều sỏi: những bóng sỏi này thường có hình một sỏi cần phân biệt với thận bằng chụp nghiêng:  sỏi thận ở sau  cột sống, sỏi  mật sẽ ở trước cột sống.

Vì ít khi thấy được  sỏi mật cản quang, cho nên cần phải chụp túi mật  và hệ thống mật quản với thuốc cản quang.

- Chụp túi mật  và đường mật với thuốc cản quang: thuốc cản quang có thể đưa vào bằng đường:

+ Uống hoặc tiêm vào tĩnh mạch: thông thường nhất. Thường chỉ hai loại kết quả:

+ Túi mật không xuất hiện, có thể  do:

Ø thuốc dùng không đủ liều hoặc kém phẩm chất.

Ø Thuốc cho bằng đường uống không đưa về gan được vì đã bị thải tiết hết ra ngoài theo phân.

Ø Gan suy không thải tết chất cản quang cùng với túi mật được.

Ø Túi mật bị loại trừ:  có cản quang cơ giới làm mật có thuốc cản quang không vào được túi mật hoặc túi mật  bị teo đét không chứa mật nữa.

Ø Túi mật xuất hệin thành một bón  hình quả lê ở bờ sườn phải . nếu có sỏi trong túi mật  sỏi xuất hiện thành một hình khuyết  trong cái bóng hình quả lê đó.  Dù có sỏi hay không có sỏi, khi xuất hiện bóng túi mật, bao giờ  cũng phải làm thêm một nghiệm pháp thăm dò  khả năng co bóp của túi mật ; đó là nghiệm pháp Boyden: cho người bệnh ăn hai lòng đỏ trứng trộn  đường  cứ sau nửa giờ chụp một lần (cho được tất cả 4 lần trong 2 giờ): nếu co bóp của túi mật tốt sau khi ăn lòng đỏ trứng, túi mật co bóp ngay, bóng mật sẽ nhỏ lại dần và sau hai giờ không thấy bóng túi mật đâu nữa. Nếu túi mật co bóp  kém thì sau hai giờ, có khi 4-5 giờ  sau vẫn còn thấy túi bóng mật.

+ Đưa thẳng vào túi mật: bằng một kim chọc qua thành bụng vào túi mật ( thường làm trong khi soi ổ bụng để chọc đúng vào túi) phương pháp này nguy hiểm vì dẽ gây biến cố viêm màng bụng  do rỉ mật  qua lỗ chọc túi  mật.  Thường hay áp dụng phương pháp đặt một  ống thông  vào túi trong khi mổ túi mật rồi qua ống thông đó mà  bơm thuốc cản quang vào đường mật  và chụp trong hoặc sau khi mổ. Thuốc cản quang sẽ đi vào  các ống mật trong và ngoài  gan; nếu có cảnq uang cơ giới trên các ống mật  thì hình ống mật sẽ bị cắt đoạn.

+ Đưa thẳng vào các mật quản trong gan qua da (cholangt ographie transculanée): dùng một kim chọc qua thành ngực  trước gan trên đường nách  trước để đi thẳng  vào các mật quản trong gan, biết được bằng cách dùng tiêm hút thấy mật ra trong đốc kim. Qua kim đó  sẽ bơm chất cản quang  vào mật quản trong gan chât cản quang sẽ đi đều vào các  mật quản  và xuống  mặt quản chủ về túi mật  nếu có cản quang cơ giới  chất cản quang sẽ bị nghẽn lại.

1.2. Phương pháp đồng vị phóng xạ:

Là  một phương pháp hiện đại thăm dò hình thái gan nhưng cũng là một phương pháp thăm dò chức năng.

1.2.1. Nguyên tắc: dùng một loại thuốc thường  được gan dự trữ  lại và thải  tiết ra bằng  đường mật kết hợp với một  đồng vị phóng xạ (thường là Rose Bangal đánh dấu với I 131), tiêm vào  tĩnh mạch cho người bệnh rồi theo dõi sự xuất hiện các  phóng xạ  ở gan bằng một  máy đếm phóng xạ có kèm thâm các bộ phận  ghi biểu đồ di chuyển  trên vùng gan; trong khi di chuyển trên diện gan, mỗi khi có phóng xạ, bút của  bộ phận  ghi biểu đồ sẽ chấm  một vạch trên giấy  và cứ như  thế  chúng ta sẽ vẽ được hình gan phóng xạ.

1.2.2. Giá trị chẩn đoán:  có tác dụng:

- Đánh giá kích thước to nhỏ quả gan.

- Phát hiện các u  trong gan biểu hiện bằng những vùng khuyết không có phóng xạ.

- Đánh giá chức năng gan: khi gan suy(  ví dụ trong xơ gan), gan không  giữ được  Rose Bengal  có phóng xạ cho nên trên gan đồ  các dấu chấm phóng xạ  rất thưa thớt . người ta thường kết hợp thêm  với theo dõi phóng xạ  ở máu: khi  gan suy, phóng xạ rất thưa thớt trên gan đồ, trái lại vẫn tập trung rất cao  ớ máu.

2.3. Các  phương pháp soi nội tạng: soi ổ bụng.

Bằng một ống soi đưa vào ổ bụng qua một lỗ rạch ở thành bụng,  soi ổ bụng là  một phương pháp rất có giá trị  vì nó cho phép ta nhận định được cụ thể  bằng mắt hình thái của mặt gan và túi mật.  Tuy vậy giá trị của nó cũng ít nhiều bị hạn chế  vì ống soi chỉ  nhìn thấy mặt trên  gan và một phần nào của mặt dưới  cho nên có thể bỏ sót những tổn thương trong lòng gan (ví dụ:  ung thư kiểu  nâhn chưa làm biến dạng mặt gan).

Phương pháp này được chỉ định trong hầu hết các  bệnh gan mật ( có gan to hay gan nhỏ, có hay không có hoàng đản, có sốt hay không có sốt).

Chống chỉ định trong:

+ Các  viêm cấp ở bụng: Viêm túi mật cấp, viêm màng bụng cấp.

+ Các cơ địa chảy máu .

+ Các  tình trạng đang khó thở.

Ngoài các tác dụng nhận xét tình trạng gan mật, soi ổ bụng, còn được áp dụng để nhận xét các phủ tạng  khác trong ổ bụng (  lách, mặt ngoài dạ dày, đại tràng, buồng trứng, mạc treo và các u trong ổ bụng).

2. THĂM DÒ GIẢI PHẪU BỆNH HỌC.

2.1. Sinh thiết gan.

Có thể sinht hếit “ mù” hay sinh thiết dưới sự kiểm tra  của mắt trong khi soi ổ bụng.

Là một phương pháp  thăm dò hiện được áp dụng rộng rãi ở các nước;  được chỉ định trong các trường hợp bệnh lý ở gan  hoặc có liên quan đến gan mà bằng các phương pháp  thăm dò khác, chẩn đoán chưa được  rõ ràng.

2.1.1. Chống chỉ định.

- Các cơ địa chảy máu.

- Trong  các trường hợp hoàng đản tắc mật.

2.1.2. Biến chứng: thông thường  nhất là:

- Chảy máu.

- Viêm màng  bụng do rỉ  mật.

Riêng trường hợp apxe gan, nếu đã chẩn đoán thật chắc chắn thì không cần chọc dò tại một cơ sở nội khoa xa trung tâm phẫu thuật: nếu chẩn đoán chưa được chắc chắn hoặc điều trị như một ápxe mà không bớt thì  cần phải chọc để xác định chẩn đoán: nếu đúng là  apxe  thì khi hút ra sẽ có mủ:  trong trường hợp này cần để kim tại chỗ, không được rút khi ra  (vì mủ  sẽ rò ra  theo lỗ kim  chọc,  gây viêm màng bụng mỡ) và gửi ngay người bệnh đến một cơ sở phẫu thuật.

2.1.3. Giá trị chẩn đoán.

- Rất lớn trong các tổn thương lan toả ( viêm gan, xơ gan…).

- Bị hạn chế trong các trường hợp tổn thương khu trú (ung thư gan,  apxe gan): sinh thiết dương tính có giá trị quyết định chẩn đoán,  nhưng sinh thiết âm tính  không có giá trị loại trừ chẩn đoán vì có thể  chọc không đúng chỗ tổn thuơng. Do đó sinh thiết  kết hợp với khi soi ổ bụng  hơn hẳn  sinh thiết mù.

3. THĂM DÒ CHỨC NĂNG.

Dựa vào các chức năng sinh lý của gan. Gan có rất nhiều chức năng, ở đây chỉ nêu các phương pháp  thăm dò một  số chức năng  chính thường áp dụng trên lâm sàng:

- Chức năng tạo mật.

- Chức năng chống độc và thải  chất máu.

- Chức năng chuyển hoá đường, đạm, mỡ.

- Chức năng đối với  cơ chế đông máu.

3.1. Chức năng tạo  mật.

3.1.1. Định lượng bilirubin máu: Bình thường  8-12mg/l. khi tăng lên sẽ có giá trị  xác định chẩn đoán và  đánh giá mức độ  hoàng đản.

3.1.2. Tìm sắc tố mật, muối mật, urobilin, urobilinogen ở nước tiểu: bình thừong chỉ có rất ít urobilinogen  và không có sắc tố, muối mật, urobilin.

Urobilin dương tính nhiều chứng tỏ tổn thương nu mô gan: trong viêm gan, xơ gan.

- Sắc tố mật dương tính chứng tỏ hoàng đản.

- Urobilinogen âm tính chứng tỏ tắc đường mật.

3.1.3. Tìm Stecobilin ở phân: Stecobilin âm tính ở phân chứng tỏ tắc mật hoàn toàn.

3.1.4. Thông tá tràng kết hợp kích thích túi mật  bằng magie sun fat (Meize Lyôn). Để lấy 3 loại mật: A (mật  ở ống mật chủ), B (mật ở túi mật), C (mật trong gan).

Có giá trị:

- Xác định tắc mật và địa điểm tắc mật.

- Ngoài ra còn là phương pháp dẫn lưu mật để điều trị các hoàng đản kéo dài.

Khi thông tá tràng, người ta còn lấy mật để xét nghiệm vi khuẩn, ký sinh vật và tế bào.

Ngoài thông tá tràng thường,  người ta còn dùng Thông tá tràng định phút  (lubage duodénal minuté)  để đánh giá tình trạng trương lực  của túi mật và khả năng co thắt  của các cơ trơn đường mật.

3.2. Chức năng chống độc  và thải chất màu.

3.2.1. Định lượng amoniac trong máu: bình thường 100%. Tong suy gan nặng, nhất là trong hôn mê gan sẽ tăng nhiều.

3.2.2. Nghiệm pháp bài tiết axit hipurie: gan giữ axit benzoic và nhờ tác dụng của một chất men (hipuricaza) tổng hợp axit benzoic với glycocol (do gan làm ra) thành axit hipuric bài tiết ra nước tiểu.

Trên cơ sở đó, phương pháp tiến hành như sau:  cho người bệnh uống nabenzot (6g) pha với 200ml nước, sau đó lấy nước tiểu  trong 4 giờ liần  và định lượng axit hipuric.

Bình thường: axit hipuric bài tiết trong 4 giờ là 3g. số lượng đó ít đi rất nhiều trong gan suy.

3.2.3. Nghiệm pháp Rose Bengal hoặc BSP (Bromo sufophtalein): tiêm tĩnh mạch cho người bệnh chất Rose bengal 2% với liều lượng 0,0015 g/kg cơ thể  hoặc BSP 5% với liều lượng 0,005%g/kg cơ thể. Sau 45 phút, lấy máu tĩnh mạch định lượng  Rose bengal hoặc glucotoza

Bình thường sau 45 phút, tỷ lệ Rose bengal trong máu dưới  0,003g/l và  BSP dưới 5%. Trong suy gan các tỷ lệ  đó  tăng cao.

Người ta còn áp dụng phương pháp:

3.2.4. Nghiên cứu thời gian xuất hiện BSP hoặc Rose Bengal  trong mật: thông tá tràng cho người bệnh và kích thích  túi mật bằng Magie sun fat (Metze Lyôn). Khi thấy mật C chảy, thì bắt đầu tiêmv  vào tĩnh ạmch cho người bệnh với liều lượng như trên. Sau đó theo dõi mật C chảy từng phút vào ống nghiệm đã có sẵn dung dịch  NaOH 10%: khi mật C  có mang theo BSP xuất hiện chảy vào  dung dịch NaOH sẽ chuyển sang màu đỏ tím.

Đối với Rose Bengal  cũng vậy nhưng không cần có NaOH: Khi mật C có  Rose Bengal xuất hiện ta dễ biết ngay vì mật đó sẽ có màu hồng.

Bình thường thời gian xuất hiện  BSP ở mật: 15 phút đến 20 phút, của Rose Bengal  là 30 phút.

Thời gian đó sẽ kéo dài trong tắc mật:

3.3. CHỨC NĂNG CHUYỂN HOÁ ĐƯỜNG.

Nghiệm pháp gây đái galactoza: 8 giờ sáng bảo người bệnh đái hết nước tiểu (bỏ chỗ nước tiểu này), rồi cho uống 40g galactoza + 20ml nước;  sau đó lấy nước tiểu từ 8 giờ đến 10 giờ (mẫu 1) từ 10 đến 12 giờ (mẫu 2), từ 12 giờ đến 18 giờ (mẫu 3) từ 18 giờ đến 8 giờ sáng  hôm sau (mẫu 4) để định lượng glucotoza.

Bình thường chỉ có glucotoza trong hai mẫu đầu với tỷ lệ 6% (mẫu 1) và 1,5% (mẫu 2).

Trong suy gan, glucotoza vẫn tiếp tục  có trong cả hai mẫu  3 và 4 và tỷ lệ rất cao.

3.4. CHỨC NĂNG CHUYỂN HOÁ ĐẠM.

Gan có nhiệm vụ  làm ra axitamin từ các chất axitamin bên ngoài  đưa vào hoặc tổng hợp từ các chất khác sãn có trong cơ thể. Trong tế bào gan các axit amin đó sẽ được biến hoá thành serin hoặc tiền  sợi huyết. Người ta  thăm dò chức năng  tạo đạm bằng các phương pháp:

3.4.1. Điện di:

Để  định chất  và định lượng các thành phần  chất đạm trong máu dựa  vào tốc độ  chuyển dịch, của từng thành phần trong một điện trường.

Về phương  diện sinh lý  học,  và bệnh lý học, người ta biết rõ là serin do gan tạo ra, còn các globulin  về căn  bản do các tổ chức  võng mạc tạo ra và mỗi  loại globulin đáp ứng với một số  quá trình nhất định  của cơ thể: nhiễm khuẩn, huỷ hoại (a) . Chuyển hoá và vận chuyển mỡ (b), phát sinh kháng thể (g).

Bình thường trong một lít huyết  tương  có 80g  ambumin gồm 45 – 55g serin, và 25-35g globulin  cho nên tỷ số  serin/globulin trung bình là S/G= 1,5 đến 1,8.

Trong suy gan, serin giảm nhiều nên tỷ số S/G sẽ hạ thấp, thường dưới 1.

3.4.2. Các phản ứng lên bông:

- Gros (với dung dịch Hayem):  bình thường 1,7ml Hayem. Trong suy gan, số lượng dung  dịch Hayem hạ nhiều.

- Mac Lagan (Với Thymol): bình thường 0 – 10 đơn vị MacLagan. Trong suy gan, kết quả sẽ trên 10 đơn vị  và nếu trên 40  thì cũng chắc chắn là suy gan.

- Ngoài ra còn các phản ứng Hangơ (với xephalin cholesterol, Takata Ara (với biclorua  thuỷ ngân), Weltmann (với Cl2Ca), Kunken (với SO4Zn), Wunderley (với Calmi Sunfat).

3.5. Chức năng chuyển hoá mỡ.

Cholesteron là một thành phần của mật  và gan do tổng hợp, este hoá và thải trừ ra ngoài bằng đường mật, cho nên người ta thăm dò  chức năng  này bằng:

3.5.1. Định lượng Cholesteron máu: Bình thường  1,6 – 1,8g/l. tăng  lên trong hoàng đản tắc mật (có khi trên 4g). giảm đi trong suy gan (có khi dưới 0,5g).

3.5.2. Tỷ số  Cholesteron este/cholesteron toàn phần: Bình thường tỷ số này là 0,50 -0,70.

Tỷ số đó sẽ giảm nhiều trong suy gan vì chất  cholesteraza (một chất  men để phân hoá cholesterol) do gan  làm ra bị giảm sút  nhiều và gan không este hoá cholesterol được nữa.

3.6. Chức năng gan đối với cơ chế đông máu.

Gan có ảnh hưởng rất nhiều đối với cơ chế đông máu vì gan sản xuất ra tiền sợi huyết Protrombin… chứa nhiều heparin. Ngoài ra muốn hấp thụ được Vitamin K để tổng hợp Protrombin, cũng cần phải có tác dụng  của mật trong việc chuyển hoá các chất mỡ làm cho Vitamin K vào được cơ thể và tế  bào gan phải tốt.  Cho nên trong suy gan, cơ chế đông máu có thể có nhiều biến đổi quan trọng phát hiện bằng:

3.6.1. Thời gian đông máu:

Bình thường từ 8 đến 12 phút.

3.6.2. Định lượng tiền sợi huyết: Bình thường 4-5g/lít.

3.6.3. Định lượng Protrombin (thời gian Quick): Bình thường thời gian Quick là 12 giây  và tương ứng  với tỷ số  Protrombin 10%. Thời gian Quick càng dài, tỷ lệ Protrombin  càng thấp. Chính xác hơn nữa, nên làm phức đồ protrombin.

Cùng với định lượng protrombin người ta thêm nghiệm pháp Kohler  để chẩn đoán phân biệt  một hoàng đản do  viêm gan hay do tắc mật ngoài gan.

Sau khi định lượng thấy protrombin dã bị giảm,  tiềm cho người bệnh 5 ngày liền mỗi nàgy 0,005g vitamin K dưới da sau đó  kiểm tra  lại protrombin máu:

+  Trong hoàng đản do viêm gan, mặc dù  tiêm Vitamin K, protrombin máu vẫn không  trở lại bình thường vì gan bị viêm không còn khả năng làm ra protrombin.

+ Trong hoàng đản do tắc mật ngoài gan, sau 5 ngày viêm vitamin K  protrombin trong máu  sẽ lên lại 100% vì gan tắc mật đã bị thiếu nguyên liệu  để làm ra protrombin: nguyên liệu

đó là vitamin K, một vitamin tan trong mỡ  mà vì tắc mật, chất mõ không được chuyển hoá tốt, không được hấp thụ qua ruột  và đem theo chất vitamin K về gan, cho nên chỉ cần tiếp vitamin K cho gan  bằng đường tiêm là gan lại có thể  sản xuất ra protrombin  làm cho protrombin máu  trở lại đậm độ bình thường.

3.7. ĐỊNH LƯỢNG CÁC MEN.

Ngoài ra người ta còn định lượng  các men để  đánh giá sự chuyển hoá của tế bào gan. Các  men đó rất nhiều nhưng thường chia thành ba nhóm:

3.7.1. Nhóm men khi tăng lên ở máu chứng tỏ có cản trở lưu thông  trên đường  dẫn mật:  các men này do gan sản xuất  ra và cũng  do gan đưa ra ngoài theo với mật: photphataza kiềm áp dụng thông thường nhất (bình thường: dưới 8 đơn vị K. Amstrong).

3.7.2. Nhóm men khi tăng lên ở máu chứng tỏ có huỷ hoại tế bào gan:  áp dụng thông thường nhất ở lâm sàng là các men:

- Transaminaza: SGOT (transaminaza glucomino oxaloaxetic seric) và SGPT (Transaminaza glutamino pyruvic seric). Bình thường dưới 1,5 mol/100ml, sẽ tăng lên rất nhiều khi có huỷ hoại tế bào gan, cụ thể  và điển hình nhất là  trong viêm gan do virut. Nhưng cũng phải cần nhớ rằng các men đó nhất là  SGOT không đặc hiệu cho gan và cũng tăng khi có huỷ hoại  tế bào ở  các  phủ tạng khác (ví dụ SGOT tăng trong  nhồi máu cơ tim).

- Audolaza.

- Glucoza 6 photphataza.

- Dehydrogenaza của các axit glutamic, actic, malic,  của socbitol.

3.7.3. Nhóm men khi giảm chứng tỏ suy chức năng gan:

- Cholesterol esteraza.

- Cholinesteraza.

- Pyruvat kinaza.

3.8. CÁC GIÁ TRỊ CHẨN ĐOÁN CÁC PHƯƠNG PHÁP THĂM DÒ CHỨC NĂNG GAN.

Có tác dụng:

3.8.1. Đánh giá mức độ suy gan để định tiên lượng:  muốn chính xác cần phải:

- Kiểm tra nhiều chức năng thì đánh giá mức độ  suy gan mới chắc.

- Kiểm tra nhiều lần  để theo dõi diễn biến  thì đánh giá tiên lượng mới chắc.

- Ngoài ra trong các thăm dò chức năng gan mà c6àn phải xét nghiệm nước tiểu ( nghiệm pháp gây galactoza niệu, hoặc nghiệm pháp natri benzoat), muốn các thăm dò đo phản ứng trung thực chức năng gan, cần phải bảo đảm khả năng bài tiết của thận còn tốt.

3.8.2. chẩn đoán phân biệt  vàng da do viêm gan hay  do tắc mật  nguyên nhãn ngoài gan:  trong tắc mật ở chu kỳ đầu, chức năng gan còn bình thường, trong viên gan chức năng gan bị suy. Ngoài ra còn các phương pháp thăm dò chức năng trên còn được sắp xếp theo hội chứng để chúng ta có thể căn cứ vào đó mà phân biệt hoàng đản do viêm hay do tắc.

3.8.3. Chẩn đoán phân biệt  xơ gan to với ung thư hoặc apxe gan:  trong ung thư và apxe gan, chức năng gan không bị rối loạn như trong xơ gan to.

Để tiện vận dụng trên lâm sàng,  hiện nay người ta chia các thăm dò chức năng  nói trên theo 4 hội chứng:

- Hội chứng tắc mật: bao gồm các yếu tố:

+ Bilirubin máu tăng.

+ Photphataza kiềm tăng.

+ Cholestern toàn phần tăng.

+ Nghiệm pháp Kohler dương tính.

+ Thông tá tràng không ra đủ 3 thứ mật.

+ Thời gian xuất hiện BSP  hoặc Rose Bengal ở mật kéo dài.

- Hội chứng suy  tế bào gan:  bao gồm các yếu tố:

+ Cholesteron este giảm và tỷ số Cholesteron este/ cholesterol toàn phần giảm.

+ Serin  giảm và tỷ số  serin/globulin <1.

+ Phức đồ  protrobin giảm.

+ Amoniac máu tăng.

+ Nghiệm pháp natri benzoat: axit hipuric  ít quá.

+ Nghiệm pháp gây đái galactoza bị kéo dài.

- Hội chứng viêm tổ chức liên kết.

+ Điện di: tăng globilin, nhất là g globulin.

+ Phản ứng lên bông dương tính.

- Hội chứng huỷ hoại tế bào gan:

+ Transaminaza, andolaza tăng nhiều.

+ Sắt huyết thanh và vitamin B12 ở máu tăng.

 

Chương 01: Đại cương
Chương 02: Triệu chứng học bộ máy tuần hoàn
Chương 03: Triệu chứng học bộ máy hô hấp
Chương 04: Triệu chứng học bộ máy tiêu hoá
Chương 05: Triệu chứng học về máu
Chương 06: Triệu chứng học hệ thống thận – Tiết niệu
Chương 07: Triệu chứng học về nội tiết
Chương 08: Triệu chứng học thần kinh
Chương 09: Triệu chứng học hộ máy vận động (cơ, xương, khớp)
Chương 10: Các hội chứng toàn thân