ĐÁI  NHIỀU, ĐÁI ÍT, VÔ NIỆU.

I. ĐẠI CƯƠNG VỀ BỆNH LÝ HỌC.

Sự hình thành nước tiểu là một quá trình lọc ở cầu thận và tái hấp thu ở ống thận. Hai quá trình ấy chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố:

1. Yếu tố trước thận.

Cầu thận muốn lọc được nước tiểu bình thường thì áp lực máu ở động mạch thận phải vừa đủ, khối lượng máu đến thận cũng phải đủ. Hai yếu tố này tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng đến sự  lọc của cầu thận, ví dụ tăng huyết áp dùng thuốc trợ tim sẽ gây đái nhiều, truỵ tim mạch, suy tim, chảy máu sẽ gây đái ít.

2. Yếu tố tại thận.

2.1. Qúa trình lọc của cầu thận chịu ảnh hưởng  của ba yếu tố:

- Ac = Áp lực  máu ở cầu thận.

- At = Áp lực  thẩm thấu  của protein huyết tương.

- Ab = áp lực  trong vỏ (Bowmann) phía bên đối diện với màng lọc cầu thận.

Ah = Ac – At – Ab.

(Ah = áp lực  có hiệu lực  để thận lọc được nước tiểu).

Như vậy Ac rất cao, phải lớn hơn At + Ab muốn cao thì áp lực ở động mạch thận  cũng phải cao. Mặt khác Ab phải thấp. Nếu cầu thận bị tổn thương thì các yếu tố trên bị thay đổi sẽ gây đái ít hoặc vô niệu.

2.2. Qúa trình tái hấp thu của ống thận:

Đoạn đầu ống thận tái hấp thu Na+, K+, Cl- và H2O (clorothiarit chống lại tái hấp thu Na+, K+,  và H2O ở đoạn này do đó gây đái  nhiều). Đoạn ống thận xạ hấp thu tại Na+, Cl- và H2O đồng thời thải ra K+, và NH4+ (đoạn  này hoạt động  dưới tác dụng của andosteron và hocmon chống đái nhiều của thuỳ sau tuyến yên). Cứ mỗi phút, 130ml nước tiểu ở cầu thận xuống ống thận thì bị tái hấp thu gần hết, chỉ còn  1 – 2ml nước tiểu  thực sự.

Spirolacton có tác dụng chống lại andosteron,  do đó gây đái nhiều. Suy thuỳ sau tuyến yên cũng gây đái nhiều. Viêm ống thận cấp do truyền máu, do ngộ độc Hg, sunfamit… sẽ gây  vô niệu  vì tắc ống thận.

3. Yếu  tố sau thận.

Do chướng ngại  ở đường tiết niệu gây nên. Ví dụ sỏi thận gây ứ nước bể thận, làm cho Ab tăng lên, do đó cầu thận lọc kém, gây đái ít  hoặc vô niệu.

II. ĐÁI NHIỀU.

1. Định nghĩa.

Bình thường  mỗi người đái mỗi ngày  từ 1,2 – 1,7 lít nếu là đàn ông, 1,1 lít đến 1,5 lít nếu là đàn bà. Khi đái trên 2 lít mỗi ngày với điều kiện: nghỉ ngơi trên giường  lượng nước  đưa vào trong 24 giờ không nhiều quá (trung bình  1,5 lít không dùng các  thuốc lợi tiểu, ăn bình thường) là đái nhiều.

2. Chẩn đoán xác định.

Rất dễ. Chỉ cần đo lưu lượng nước tiểu 24 giờ. Có khi người bệnh tự kể cho thầy thuốc. Muốn chắc chắn, phải tuân theo những  điều kiện kể trên để  tránh  những yếu tố  sinh lý.

3. Nguyên nhân.

3.1. Đái nhiều sinh lý:

- Do uống nhiều nước: lưu lượng máu đến thận nhiều hơn. Ac sẽ tăng lên.

- Dùng các chất lợi tiểu: như cà phê, chè, các thuốc lợi tiểu loại thuỷ ngân, sunfamit lợi tiểu, spirolacton, v.v… tác dụng  chung của các thầy thuốc này là chống lại tái hấp thu của ống thận.

- Dùng các thuốc  trợ tim:  Digitalin, ubain, long não. Các thuốc này  làm tăng lưu lượng tim/phút, do đó AC tăng, gây đái nhiều.

- Giai đoạn lui bệnh của một số bệnh:  thương hàn, viêm phổi, viêm gan do virut, cúm…

- Mùa rét: việc thoát nước qua da kém đi, do đó thận phải bài tiết nhiều hơn.

3.2. Đái nhiều bệnh lý.

- Tại thận: viêm thận mạn, một số trường hợp đái nhiều hơn bình thường một chút. Ban đêm đái nhiều hơn ban ngày.

- Ngoài thận: hai nguyên nhân thông thường và quan trọng là

+  Đái tháo đường: người bệnh ăn uống rất nhiều, đái cũng rất nhiều hàng chục lít, hơn chục lít một ngày. Nước tiểu có glucoza, glucoza máu cao.

+  Đái tháo nhạt: so suy thuỳ sau tuyến yên, hocmon chống đái nhiều  được bài tiết  ra  ít, do đó  tái hấp thu  ở ống thận  giảm đi. Người bệnh  cũng uống nhiều, đái rất  nhiều  nhưng nước tiểu không có protein, không có glucoza. Glucoza máu không cao. Tỷ trọng  nước tiểu giảm (tới 1,003).

III. ĐÁI ÍT VÀ VÔ NIỆU.

1. Định nghĩa.

- Đái ít: lượng nước tiểu  24 giờ  được từ 300 – 500ml.

- niệu: không có nước tiểu trong bàng quang khi thông đái, hoặc nước tiểu 24 giờ thấp dưới  300ml. hậu quả  nguy hiểm  của nó là tăng nitơ máu  và rối loạn thăng bằng nước, điện giải, kiềm toan. Cần  phải  chống lại nguy cơ này một cách tích cực.

2. Chẩn đoán xác định.

Đo lượng nước tiểu 24 giờ  hoặc thông đái lấy nước tiểu trong 24 giờ nếu quá ít.

Cần phải phân biệt vối bí đái, vì bí đái là hiện tượng nước tiểu có đầy trong bàng quang mà không tự đái được, như vậy chứng tỏ thận vẫn còn làm việc tốt. Còn đái ít và vô niệu chứng tỏ thận bị tổn thương.

3. Nguyên nhân của đái ít, vô niệu.

3.1. Sinh lý:

Nếu vô niệu thì chắc chắn là yếu tố bệnh lý (chỉ có đái ít nhẹ ) mới có  yếu tố sinh lý.

- Do ăn nhạt.

- Do ăn khô, uống ít nước: khối lượng máu đến thận ít, Ab sẽ giảm xuống.

- Ra mồ hôi nhiều: thành phần mồ hôi gần giống  nước tiểu, mồ hôi ra nhiều gây mất nước, mất muối, do đó thận bài tiết ít.

- Do nằm nhiều, ít vận động (liệt, bệnh mạn tính…) lưu lượng máu đến thận giảm, Ac giảm gây đái ít.

3.2. Bệnh lý:

3.2.1. Tại thận:

- Viêm thận:

+  Viêm ống thận cấp: do ngộ độc Hg, ngộ độc mật cá trắm, tai biến truyền máu khác loại, sunfumit… thường gây vô niệu.

+  Viêm cầu thận cấp: thường gây đái ít, nặng  cũng có thể gây vô niệu nhưng ít gặp hơn.

+  Viêm cầu thận mạn: đái ít vừa.

+  Viêm thận do leptospira.

- Sỏi thận: gây ứ nước ở ống thận  và cầu thận, Ab tăng do đó nước  tiểu bị giảm. Nếu  bị một bên thận, thận lành sẽ  làm việc bù. Cơn đau quặn thận thường gây vô niệu  nhất thời do phản xạ.

- Lao thận: khi đã ảnh hưởng đến chức năng thận  sẽ gây đái ít hoặc không có nước tiểu.

- Ung thư thận: giai đoạn cuối cùng gây vô niệu  hoặc đái ít.

- Biến chứng của  nhiễm khuẩn nặng như thương hàn, bạch cầu (gây viêm cầu thận).

3.2.2. Ngoại thận:

- Sốt cao: sốt cao nên ra mồ hôi nhiều, thờ nhiều, gây mất nước, mất muối.

- Suy tim: lưu lượng máu đến thận giảm, áp lực  động mạch thận cũng giảm.

- Xơ gan: vì ứ  Na trong cơ thể, andosteron bài tiết tăng lên hậu phát, lại càng giữ Na+ lại.

- Những nguyên nhân trên đây ít khi gây vô niệu, dù nặng. Nhưng  những nguyên nhân  dưới đây, nếu nặng, có thể gây vô niệu, nếu nhẹ thì gây đái ít.

- Nôn nhiều, ỉa chảy do mất nước nhiều, Ac giảm, ây ít đái, vô niệu.

- Truỵ tim mạch, mất máu nặng: do Ac và cung lượng máu đến thận giảm.

IV. KẾT LUẬN.

Vô niệu  bao giờ cũng có  nguyên nhân bệnh lý và phải coi như  là một  trường hợp cấp cứu, phải xét  kịp thời tìm nguyên nhân, xử trí  kịp thời.

 

Chương 01: Đại cương
Chương 02: Triệu chứng học bộ máy tuần hoàn
Chương 03: Triệu chứng học bộ máy hô hấp
Chương 04: Triệu chứng học bộ máy tiêu hoá
Chương 05: Triệu chứng học về máu
Chương 06: Triệu chứng học hệ thống thận – Tiết niệu
Chương 07: Triệu chứng học về nội tiết
Chương 08: Triệu chứng học thần kinh
Chương 09: Triệu chứng học hộ máy vận động (cơ, xương, khớp)
Chương 10: Các hội chứng toàn thân