HỘI CHỨNG VIÊM  NHIỀU DÂY THẦN KINH.

Danh từ  viêm nhiều dây thần kinh  dùng để chỉ một nhóm  bệnh  gây  tổn thương các dây thần kinh ngoại biên, nhất là  tổn thương ở các đoạn xa  của tứ chi.

I. GIẢI PHẪU BỆNH HỌC.

Tổn thương điển hình  trong viên  nhiều dây thần kinh là thoái hoá từng đoạn xung quanh trục thần kinh, nghĩa là trên một dây thần kinh, có đoạn bị thoái hoá, có đoạn lành; thường thoái hoá các bao myelin, trục thần kinh thường không bị tổn thương.

Thường tổn thương ở nhiều dây thần kinh  và năng nhẹ không đều nhau.

Tổn thương  có thể ở các neron vận động của sừng  trước tuỷ, đặc biệt gặp trong viêm nhiều dây thần kinh  do nhiễm khuẩn.

Ngoài ra  còn  gặp các tổn thương  thứ phát  các sợi phát  các sợi cơ, kiểu teo  cơ do thần kinh.

II. LÂM SÀNG.

Viêm nhiều dây thần kinh thường do nhiều nguyên nhân. Mỗi nguyên nhân đều có  các hình thái lâm sàng riêng. Song dù do nguyên nhân  gì, hội chứng viêm nhiều dây thần kinh cũng biểu hiện ở mấy triệ u chứng chung sau đây:

1. Rối loạn cảm giác.

- Rối loạn cảm giác chũ quan: lúc đầu, người bệnh có cảm giác tê buồn ngoài da, kiến bò. Vềsau, có thễ bị chuột rút và đôi khi có cơn đau tự phát, cơn đau liên tục và đau cách và thường xảy ra ban đêm. Đau như  phải bỏng hoặc như vết dao cắt.

- Rối loạn cảm giác khách quan: khi ấn sâu vào khối cơ hoặc dọc dây thần kinh, hoặc có khi chỉ kích thích  nhẹ trên mặt da cũng kêu đau. Chỉ một vật nhẹ đè lên da, người  bệnh cũng không chịu được.

Các rối loạn cảm giác này thường gặp ở hai chi dưới.

Trong một số trường hợp ngừoi bệnh mất hẵn cảm giác.

2. Rối loạn vận động. 

Có thể thấy bại hoặc liệt mềm hai chi dưới hoặc 4 chi, phối hợp với giảm hoặc mất phản xạ gân xương. Các phản xạ gân xương có thể bình thường hoặc trong một thời gian dài, đôi khi lại hơi tăng.

Bại hoặc liệt, thường bị cả hai bên, đối xứng nhau và thường ở  cái đoạn xa.

Ở chi dưới, thường bị ở nhóm cơ ngoài cẳng chân, rồi đến cơ duỗi ngón cái và các cơ duỗi nói chung đều bị . chân trở nên lủng lẳng, ngón chân cái ở thư  thế gấp. Quan sát lúc đi lại, sẽ thấy dáng đi kiểu chân rũ (steppage à la marche).

Ở chi trên: liệt hoàn toàn cơ duỗi ngón tay, làm cho bàn tay rũ xuống. Như “ cổ cò”.

Liệt có thể ở cả các cơ ở thân và một số dây thần kinh sọ, đặc biệt là vận động mắt và vòm hầu. Có thể bị liệt cả cơ hô hấp.

Do liệt  ngoại biên, nên có thể thấy các rối loạn khác kèm theo như:

- Teo cơ: teo cơ có khi xảy ra nhanh, có thể trở nên teo vĩnh viễn, kèm theo thoái hoá xơ ở các cơ. Nhưng nói chung, nếu được điều trị sớm thì thường hồi phục nhanh chóng.

- Rối loạn về  phản ứng điện:  giảm hoàn toàn hoặc giảm nhẹ kích thích dòng  faradic.

3. Rối loạn phản xạ. 

Các phản xạ gân xương, lúc đầu giảm, về sau mất hẳn. Các phản xạ da, niêm mạc có khi cũng mất.

Các rối loạn trên,  lúc đầu ở các đoạn xa của tứ chi, và ở một số nhóm cơ, sau lan dần vào gốc chi và toàn bộ các chi đều có thể bị.

III. NGUYÊN DO.

Nguyên do gây  viêm nhiều dây thần kinh có khá nhiều. Có thể sắp xếp ra mấy loại sau đây.

1. Viêm nhiễm dây thần kinh do thiếu Vitamin B1.

Do trong thức ăn thiếu vitamin B1 hoặc do không hấp thu  được vitamin B1.

Bệnh thể hiện bởi  ba loại triệu chứng: phù, rối loạn tim mạch, viêm nhiều dây thần kinh.

Điều trị vita min B1 lìêu cao thì khỏi nhanh.

2. Do chuyển  hoá:

Gặp trong một số bệnh chuyển hoá như: bệnh đái tháo đường, bệnh gút.

Các người bệnh đái tháo đường không được điều trị, trong một thời gian lâu, có thể bị viêm nhiều dây thần kinh.

3. Do nhiễm khuẩn:

Một số bệnh do vi khuẫn và virut có thể kèm thêm viêm nhiều dây thần kinh. Đặc biệt hay bị viêm nhiều dây thần kinh trong bệnh bạch hầu.

4.  Do ngộ độc:

Ngộ độc rượu kinh niên, gây thiếu vitamin B1. thiếu vitamin B1 ở đây có thể  do: chế độ ăn quá nhiều đường hoặc biếng ăn, có thể do hấp thu kém ( rối loạn tiêu hoá ở người uống rượu), hoặc do  sử dụng kém.

Thực ra,  ngoài thiếu vitamin B1, ở đây còn thiếu  cả  B2, B6, B12 và PP…

Ở các nước tư bản,  ngộ độc gây viêm  nhiều dây thần kinh chiếm hàng đầu và tới 80% so với các nguyên nhân khác.

Ở núơc ta, nguyên  nhân này rất hiếm. Nhưng do nền công nghiệp  của ta tiến triển nhanh chóng, chúng ta cần nhanh chóng phát hiện  các trường hợp viêm nhiễm dây thần kinh  ở công nhân  tiếp xúc  với các  kim loại nặng như:  chì, asen, thuỷ ngân. Trong các loại ngộ độc gây viêm nhiều dây thần kinh, ngộ độc các kim loại nặng kinh niên cũng là một nguyên nhân quan trọng.

IV. CHẨN ĐOÁN.

Chẩn đoán xác định liệt mềm ngoại biên hai chi dưới hoặc tứ chi nhiều khi còn dễ, song chẩn đoán nguyên nhân có khi  gặp khó khăn.

Trong viêm  nhiều dây thần kinh, thường trước tiên gây liệt  hai chi dưới, do vậy các nguyên nhân  liệt mềm hai chi dưới cần  phải chẩn đoán  phân biệt với:

1. Viêm nhiều rễ dây thần kinh.

Chẩn đoán phân biệt khó khăn nhất  vì về lâm sàng rất giống nhau. Nhưng ở đây, rễ dây thần kinh nằm trong tuỷ sống nên khi có viêm sẽ rối loạn nước não tuỷ: anbumin sẽ tăng nhiều, tế  bào bình thường ( hiện tượng phân ly đạm – tế bào).

Hội chứng viêm nhiều rễ dây thần kinh này thường do virut và tiến triễn  lành tính, sau một thời gian bệnh sẽ khỏi.

2. Hội chứng  đuôi ngựa:

Liệt ngoại biên hai chi dưới. Nhưng có khác là có rối loạn  cơ tròn, và rối loạn cảm giác rất đặc biệt: mất cảm giác vùng dây đáy chậu và sinh dục.

3. Bệnh bại liệt trẻ em:

Liệt ngoại biên, song không có rối loạn  về cảm giác.

4. Các bệnh ở tuỷ sống, như xơ  rải rác cấp, viêm tuỷ cấp:

Lúc  đầu cũng gây liệt mềm, tổn thương có thể rộng song thường  có rối loạn  cơ tròn, có tổn thương  bó tháp và thường  chuyển sang liệt cứng.

 

Chương 01: Đại cương
Chương 02: Triệu chứng học bộ máy tuần hoàn
Chương 03: Triệu chứng học bộ máy hô hấp
Chương 04: Triệu chứng học bộ máy tiêu hoá
Chương 05: Triệu chứng học về máu
Chương 06: Triệu chứng học hệ thống thận – Tiết niệu
Chương 07: Triệu chứng học về nội tiết
Chương 08: Triệu chứng học thần kinh
Chương 09: Triệu chứng học hộ máy vận động (cơ, xương, khớp)
Chương 10: Các hội chứng toàn thân