DÙNG THUỐC KHÁNG SINH: NÊN TIÊM HAY UỐNG?

Tác giả : BS. NGUYỄN VĂN BÀNG (Khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai)

Cùng với sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật và theo nhu cầu ngày càng tăng trong việc điều trị các bệnh nhiễm khuẩn, người bệnh và thầy thuốc đứng trước hàng ngàn loại thuốc kháng sinh và mỗi thứ lại có nhiều dạng bào chế khác nhau để tiêm hoặc uống. Vậy làm thế nào để sử dụng đúng đắn và có hiệu quả mà không tốn kém một cách không cần thiết và không gây hại, đó là một câu hỏi lớn đặt ra cho người tiêu dùng, cụ thể là người bệnh.

Trong thực tế hiện nay, chúng ta thấy cùng một tên thuốc, có thể có đến 5-7 loại thuốc của các hãng khác nhau, lại có loại ống hoặc lọ để tiêm cơ bắp hoặc truyền tĩnh mạch, loại viên hoặc bột hoặc xi-rô để uống. Nhiều người thường nghĩ rằng: tiêm tốt hơn uống nên thường đòi hỏi dùng thuốc tiêm, dù biết có nhiều bất tiện, vì họ cho rằng: tiêm sẽ chóng lành bệnh hơn. Vậy thực ra, các dạng thuốc cùng tên có khác nhau gì không? Nên dùng loại thuốc nào? Nên tiêm hay uống? Tại sao?

1. Thế nào là thuốc tốt?

Thuốc tốt là thuốc nhanh chóng có được nồng độ đủ phát huy tác dụng nhanh chóng sau khi dùng, có thời gian tồn tại trong máu càng lâu càng tốt, để khỏi phải dùng nhiều lần trong ngày. Ngoài ra thuốc tốt còn là thuốc không gây nhiều tác dụng phụ nguy hiểm, dễ sử dụng (càng ít lần dùng trong ngày càng dễ dùng, ít bị quên), mùi vị dễ chịu khi uống hoặc ít đau khi tiêm và giá thành hợp lý.

2. Những đặc tính cần thiết của một thuốc kháng sinh là gì?

a. Về dược lực học (hay hoạt tính kháng khuẩn của kháng sinh)

Thuốc kháng sinh dù dưới dạng bào chế nào cũng có dược tính (hay tác dụng diệt khuẩn mong muốn) như nhau. Các dạng bào chế khác nhau là để giúp thầy thuốc cho bệnh nhân dùng phù hợp với từng mức độ bệnh, tình trạng bệnh nhân và dễ dàng sử dụng, thuận lợi cho bệnh nhân, nhất là người cao tuổi và trẻ em.

b. Về dược động học (hay là thời gian phát huy tác dụng và hết tác dụng của thuốc), sự khác nhau chủ yếu giữa thuốc uống và thuốc tiêm.

Khi đưa bất cứ một thứ thuốc nào vào trong cơ thể, thuốc cũng cần một thời gian nhất định để có nồng độ cao trong máu đủ để phát huy tác dụng, và sẽ bị cơ thể loại bỏ bằng nhiều cách khác nhau ra khỏi cơ thể.

Các thuốc dùng qua đường tiêm sẽ nhanh chóng có nồng độ cao trong máu và trong vùng bị bệnh, nghĩa là sẽ sớm phát huy tác dụng. Nhưng khi tiêm, thuốc cũng nhanh chóng bị đào thải khỏi cơ thể.

Ví dụ: Khi tiêm Ampicillin qua đường tĩnh mạch, sau 2-3 phút sẽ có nồng độ tối đa trong máu và thuốc sẽ bị loại trừ hoàn toàn khỏi cơ thể sau khoảng 5 giờ nên phải tiêm ít nhất mỗi ngày 4 lần mới chống được vi khuẩn sinh sôi trở lại trong máu. Còn nếu tiêm bắp sẽ mất 45 phút đến 1 giờ để có nồng độ tối đa cần thiết và sẽ bị đào thải phần lớn khỏi cơ thể sau 7-8 giờ, như vậy đòi hỏi phải tiêm bắp ít nhất 3 lần mỗi ngày mới đủ tác dụng. Ngược lại, nếu uống, phải mất khoảng 2 giờ sau mới đạt nồng độ tối đa cần thiết, nhưng thuốc chỉ bị đào thải phần lớn sau 10-12 giờ và người bệnh chỉ cần uống 2 lần mỗi ngày cũng có thể đủ tác dụng cần thiết.

Một thí dụ khác: Cephalosporin là một nhóm thuốc kháng sinh được dùng rất phổ biến hiện nay, đặc biệt là các thuốc thế hệ thứ 3 (ví dụ: Cefotaxime mà biệt dược phổ biến là Claforan®, vì tác dụng diệt khuẩn rất mạnh, lại ít độc. Đa số các thuốc này được dùng trong những trường hợp nặng nên chủ yếu dưới dạng tiêm. Nếu tiêm tĩnh mạch, sau 5 phút sẽ có nồng độ tối đa, và sẽ chỉ còn lại một nửa trong máu sau 40 phút, nên thường phải tiêm 3-4 lần mới có kết quả tốt. Khi tiêm bắp, sau 30 phút sẽ có nồng độ tối đa và sau 80 phút sẽ chỉ còn một nửa trong máu, nên thường phải tiêm 2 lần trong ngày. Gần đây, người ta cũng đã sản xuất được các thuốc loại này ở dạng uống, mà các biệt dược có mặt tại Việt Nam là: Cedax® hoặc Oroken® (hãng Rhône - Poulenc) và gần đây là Cifex® (Cefixime của hãng Fujisawa). Các thuốc này có cả dạng viên, bột và xi-rô dùng cho trẻ. Sau khi uống 1 giờ có đủ nồng độ diệt khuẩn, nhưng sau 4 giờ sẽ đạt nồng độ tối đa, và tác dụng có thể kéo dài từ 18-24 giờ sau 1 liều uống, nên chỉ phải uống 2 hoặc thậm chí 1 lần trong ngày.

3. Khi nào phải tiêm, khi nào nên dùng đường uống?

Cho tới nay, rất nhiều người, kể cả một số thầy thuốc, thường cho rằng: tiêm thì thuốc sẽ có tác dụng nhanh và mạnh hơn uống, nên bệnh chóng khỏi. Thực ra không phải như vậy. Trong thực tế, chỉ phải sử dụng đường tiêm bắt buộc trong một số ít trường hợp sau:

a. Bệnh nhân nôn trớ thường xuyên, không thể đưa thuốc vào đường tiêu hóa được.

b. Bệnh nhân nhiễm khuẩn quá nặng (nhiễm khuẩn máu có choáng chẳng hạn) có rối loạn hấp thu tại đường tiêu hóa.

c. Cần khống chế ngay tình trạng nhiễm khuẩn tiến triển nhanh kiểu “sét đánh” như trong nhiễm khuẩn máu do não mô cầu là tình trạng cực kỳ nặng và tiến triển chớp nhoáng, nhưng cũng may mắn là rất hiếm gặp.

Ngoài ra, trong đại đa số các tình trạng bệnh khác, kháng sinh đều có thể dùng bằng đường uống với liều lượng thích hợp (được hướng dẫn rõ trong các tài liệu trong và ngoài nước) sẽ có tác dụng chữa bệnh y hệt như đường tiêm, nhưng tránh được đau đớn cho bệnh nhân (nhất là đối với trẻ em), ít có tác dụng phụ và tai biến hơn tiêm, dễ dùng, có thể hướng dẫn gia đình tự điều trị nên tránh được nhập viện không cần thiết, và giá thành bao giờ cũng rẻ hơn dùng thuốc tiêm. Nếu dùng các thuốc như Oroken hoặc Cifex thì chỉ cần uống 1-2 lần trong ngày nên đỡ quên, thuận tiện cho cả bệnh nhân và người nhà.

Hy vọng rằng qua bài này, chúng tôi có thể trả lời được một số câu hỏi mà nhiều người vẫn luôn quan tâm về việc dùng thuốc và các bạn có thể biết cách sử dụng thuốc một cách yên tâm, thuận tiện hơn khi bản thân hay người nhà bị bệnh.

Chú thích ảnh:Dùng dạng tiêm hay uống đều phải có chỉ định của bác sĩ.  

 


Thuốc

Kiến thức Dược
Thuốc kháng sinh
Thuốc ngừa thai và hệ sinh dục
Thận trọng và cách dùng thuốc


Danh mục thuốc theo tên hóa học
Khái niệm thuốc
Kiến thức Dược
Thuốc kháng sinh
Thuốc men và cách dùng thuốc
Thuốc ngừa thai và hệ sinh dục
Thận trọng và cách dùng thuốc
Tra cứu dược phẩm
Trang chủ thuốc, dược phẩm, thực phẩm, dinh dưỡng
Vaccine và chủng ngừa