TỪ TÌNH DỤC HỌC ĐẾN
"VIAGRA" CỦA CÁC VƯƠNG TRIỀU TRUNG QUỐC
THƯỢNG HỒNG
Từ bài học làm đàn
ông...
Truy tìm trong sách sử
các triều đại đế vương phong kiến của Trung Quốc, chúng ta có thể kết luận
rằng riêng 13 đời vua nhà Thanh là xứng đáng với danh hiệu là các triều đại
huy hoàng nhất của thần dược dành cho dục tình và trường xuân bất lão.
Tám bộ tộc người Mãn
Thanh khởi binh chiếm Trung Nguyên, đuổi nhà Minh, đô hộ Hán tộc, họ đã mang
theo từ miền đất xa vào mọi thứ lạ lùng, kỳ dị... mà mãi 300 năm sau, khi họ
bị diệt vong, dân Hán vẫn chưa hết bàng hoàng, ngơ ngẩn về những gì đã chứng
kiến. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ xin nói về một điều lạ thường duy
nhất: Phương pháp tăng dục bằng dược thảo và các bí kíp "học làm đàn ông"
có một không hai trong lịch sử loài người.
Có lẽ trước đó (đầu thế
kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20) khá lâu ở Ần Độ đã xuất hiện một loại "Kinh tình
dục" (Kuma Sutra), luận và hướng dẫn thuật yêu đương. (Tình dục học), nhưng
chủ yếu viết bằng Phạn ngữ, lý luận nhiều, ít có hình ảnh minh họa để thực
hành, chỉ đến đời Mãn Thanh thì cái gọi là "tình dục học" mới phát triển cụ
thể và phổ biến hiệu quả hơn.
Khi vua Khang Hy băng hà,
ông di chiếu truyền ngôi cho Hoàng tử thứ 4 (Dân Nhưn), nhưng người chính
thức lên ngôi là thập tứ (14) Hoàng tử Dân Trinh- do một mưu đồ soán ngôi
tinh vi và ác độc. Từ đó bắt đầu triều đại của Ung Chính hoàng đế (vương
hiệu của Dân Trinh). Cũng có nghĩa là khởi đầu một giai đoạn đầy những âm
mưu thâm độc và những trò loạn dâm đến kinh hồn.
Ung Chính hoàng đế ngay
từ nhỏ đã được vua cha (Khang Hy) gửi theo học võ thuật và y thuật với các
vị Lạt Ma nên thấm nhuần tư tưởng của họ và nhất nhất đều rập khuôn hành
động của họ. Một trong điều quan trọng nhất là các vị Lạt Ma bắt Ung Chính
phải thực hiện ngay là thiết lập một ngôi miếu Lạt Ma cực lớn, cực kỳ bí
hiểm. Mà về sau có người còn gọi là "Điện hoan hỉ Phật".
Nhưng tại sao lại có
những cái tên như vậy? Đây, ta hãy nghe sử sách đời sau mô tả lại: "Đây
không phải là ngôi chùa, cũng không phải là miếu, lại không thể là điện, nó
chỉ là nơi tập hợp đến hàng ngàn các tượng La Hán theo phong cách của Lạt Ma
giáo. Bên cạnh đó là hàng ngàn tượng và hình vẽ mỹ nhân đẹp mê hồn. Đặc
biệt, tất cả tranh tượng ấy đều. khỏa thân!".
Để làm gì vậy?
Dĩ nhiên không chỉ để
ngắm suông. Các vị Lạt Ma gán cho "ngôi miếu" này chức năng rất cụ thể: Là
trường dạy làm đàn ông.
Nguyên là thế này: Vua
Khang Hy có đến vài chục người con chính thức với các bà hậu, phi và hàng
trăm các con rơi rớt với các tú nữ trong số hàng nghìn cung nữ. Ông được các
vị Lạt Ma gợi ý: Nên lập riêng một trường để dạy cho các hoàng tử, công chúa
biết cách "làm người". Đặc biệt cho các hoàng tử nhí được huấn luyện trước
khi bước vào cuộc đời đàn ông đúng nghĩa. Ngôi miếu Lạt Ma đó được thiết kế
như một ngôi đền của người Mông Cổ, Tây Tạng. Kín đáo, bí hiểm và chỉ dành
riêng cho các cô, cậu con vua. Các tượng và đồ hình đầu tiên ở các cửa vào
là tượng, ảnh trần truồng của cả nam lẫn nữ. Đứng ngồi mọi tư thế, lại gần
trông giống như người thật, với mọi bộ phận cơ thể rập khuôn, sống động.
Dùng nó như một mô hình để học, để nhận biết các bộ phận mà các hoàng tử,
công chúa không tiện nhìn ở người thật.
Bước qua khỏi cửa miếu
cũng là vừa qua bài nhập môn. Những tượng và hình ảnh tiếp theo là từng động
tác về trình tự "quan hệ nam nữ" từ A đến Z. Với hơn 500 tư thế, chi tiết
đến không còn có thể chi tiết hơn. Bảo đảm cho một thiếu niên khi xem qua
một lượt là có thể thuộc nằm lòng "bài học" vừa học được.
Nhưng học để làm gì?
Vâng, để "làm người". Hãy nghe các Lạt Ma nói: "Chẳng ai không học mà tự
biết một cách thấu đáo chuyện làm người. Các hoàng tử, công chúa hơn ai hết
phải học những chuyện khó học ở người ngoài, để chính thức thành nhân trước
khi bước vào đời vợ chồng. Trai 15, gái 13, đều phải học ở Lạt Ma miếu".
Đặc biệt nhất, đối với
các hoàng tử, họ được dạy tỉ mỉ hơn vào cuối khóa học, một chương nói về "nghệ
thuật hoan hỉ". Học với tượng và đồ hình, nhưng thỉnh thoảng các Lạt Ma
cũng cho các vương tôn mới lớn đó nếm mùi thật với các tú nữ bị bặt mắt đưa
vào miếu.
Có thể nói, đây là trường
dạy về tình dục học đầu tiên trên thế giới!
. Bước phát triển của
Vua Càn Long
Khi Ung Chính băng hà,
Càn Long nối ngôi, và tỏ ra còn xứng đáng để thừa hưởng những gì học được từ
Lạt Ma miếu. Càn Long cho xây dựng thêm nhiều hình thức như Lạt Ma miếu, chỉ
có điều là dùng làm chốn riêng cho ông ta thôi. Nổi bật hơn cả là tòa Ngự
Đài Hành Cung Quán, tòa cung điện này bên ngoài khác với miếu Lạt Ma,
nhưng bên trong thì cũng đặt nhiều pho tượng và tranh vẽ giống như vậy. Phân
ra thành vài chục phòng nhỏ, mỗi phòng dành cho một phi tần. Ông tuyên bố sở
dĩ phải lập ra nhiều "miếu" nhỏ với nhiều mỹ nhân khác nhau như vậy là để
thực hành bài học nghiên cứu phương thuốc "Trường xuân thiên mỹ nhân"
(phương thuốc trường xuân với một ngàn mỹ nhân).
Cầu kỳ hơn, vua Càn Long
còn lập ra bên cạnh Ngự đài hành cung một nơi gọi là Thưởng Diệm Hành
Cung. Nơi này là biệt điện của nhà vua, dành để "triệu hạnh" các phi
tần.
Cách "triệu hạnh" (gọi
các người đẹp đến ân ái) của Càn Long cũng khác đời hơn bất cứ ai: Bởi có
quá nhiều cung tần mỹ nữ dành sẵn trong hành cung, nên phải xoay vòng cho
công bằng. Chính Hoàng hậu (chính cung) đã đặt ra cái lệ này: Mỗi bữa cơm
chiều, viên tổng thái giám phụ trách lên danh sách các phi tần mạnh khỏe,
sung sức, để rồi trình lên hoàng hậu, bà này sẽ ký tên lên một danh mục liệt
kê hàng loạt các thẻ bài đề tên từng phi tần, gọi là Thiện bài. Thẻ
thiện bài này là "giấy phép" cho các phi tần được "ứng thí" vào danh sách
trình cho vua, để vua chọn cho "lâm hạnh" (ngủ với vua).
Thiện bài là một loại thẻ làm bằng tre hay gỗ
quý, trên đầu thẻ thường sơn màu xanh, nên còn gọi là "lục đầu bài". Mỗi thẻ
ghi tên một phi tần. Tất cả được đặt trên chiếc mâm bằng vàng (hoặc bạc).
Riêng thẻ của nàng phi nào mà hôm đó đến "kỳ" thì được cắm nghiêng đi, để
vua biết mà tránh. Nhà vua chọn tên ai, hoặc rút nhằm thẻ nào, thì đêm đó
nàng ấy được "lâm hạnh".
Vua Càn Long được xem là
"chiến tướng" trên trường tình, là thủ lãnh của lớp học Lạt Ma miếu. Nhưng
sức người đâu phải sức voi. Cho nên, chỉ được vài năm nhà vua phải dùng tới
một phương tăng lực, được cho là thần dược, do các Lạt Ma bào chế. Có tên
gọi là A-tô-cơ hoàn.
Là thuốc gì vậy?
Là thần dược dành cho các
ông, đó là "Viagra" của triều Mãn Thanh.
Kỳ sau: A-tô-cơ
hoàn, loại thần dược.