LỊCH SỬ CỦA VIÊN THUỐC NGỪA THAI
P.V
(Thep Science & Vie)
Loại thuốc uống ngừa thai
đầu tiên Enovid được tung ra thị trường năm 1958. Giới y học phê phán nó,
nhưng giới phụ nữ ủng hộ nó, và nó đã làm đảo lộn xã hội. Sự thay đổi đó lại
chuẩn bị cho một cuộc cách mạng y học khác: mang thai có trợ giúp bằng y
học.
Viên thuốc ngừa thai lúc
đầu đã bị giới y học và các hãng dược phẩm phê phán là không đúng đắn, tội
lỗi, vô ích; nhưng giới phụ nữ ca ngợi vì cho rằng nó là vị cứu tinh, là
thiết thực, tuyệt vời. Năm 1965, chỉ 5 năm qua khi được Cơ quan Quản lý Thực
và Dược phẩm Hoa Kỳ chuẩn y và nhiều phụ nữ đã dùng nó.
Thắng lợi này là sự tiếp
nối của ba nhân vật. Bà Margaret Sanger (Mỹ, 1879-1966), xuất thân từ một
gia đình đông con, làm điều dưỡng viên trong một nhà bảo sanh ở khu phố
nghèo nàn của New York. Tiếp theo là sáng lập viên của Hội kế hoạch hóa gia
đình, Gregory Pincus (Mỹ, 1903-1967), cũng là một nhà nội tiết học nổi
tiếng, đã cho ra đời những thỏ con mà không cần có con đực. Ông sáng lập hội
Worcester nghiên cứu về sinh học thực nghiệm, chuyên về yếu tố hormone trong
sinh sản. Người thứ ba là bà Katherine Dexter Mac Cormick (Mỹ, 1876-1967),
một trong những phụ nữ đầu tiên tốt nghiệp ngành sinh học Hoa Kỳ, dùng gia
tài kết sù của mình để tài trợ cho nhiều dự án vì quyền lợi phụ nữ. Năm
1950, Margaret Sanger thuyết phục Pincus chế ra một loại thuốc ngừa thai
tiện dụng mà không cần sự trợ giúp của bác sĩ. Katherine Mac Cormick tài trợ
cho viện nghiên cứu này, với điều kiện là phải có kết quả nhanh chóng.
Các hormone sinh dục đã
được nhận dạng từ hơn 10 năm trước. Và vai trò của chúng trong sự sinh sản
về tổng thể đã được hiểu biết. Năm 1922, nhà sinh học người Áo, Ludwig
Haberlandt (1885-1932), thực nghiệm vô sinh cho thỏ cái bằng cách tiêm một
chất trích từ buồng trứng của những con thỏ có thai. Sau đó, ông tạo ra một
sản phẩm ngừa thai cho người nhưng không bao giờ được thương mại hóa. Vào
thời ấy, các nhà nghiên cứu nội tiết học cố tìm cách tạo ra hormone bằng
cách tinh chế những chất trích từ cơ quan. Từ thập niên 30, các nhà khoa học
đã biết phân lập và tổng hợp chúng. Việc thương mại hóa hormone cho mục đích
chữa trị tỏ ra có lãi hơn.
Năm 1943, nhà nghiên cứu
người Mỹ, Rusesl Market, tổng hợp được progestérone từ một nguyên liệu rẻ
tiền - chất diósgenine - có trong một loại củ ở Mexico. Năm 1951, các nhà
hóa học của phòng thí nghiệm Syntex do ông thành lập ở Mexico còn làm tốt
hơn: một loại progestérone để uống, chứ không cần tiêm dùng để điều hòa kinh
nguyệt cho phụ nữ. Hai năm sau Frank Colton của phòng thí nghiệm Searle xin
cấp bằng phát minh cho một loại progestérone tổng hợp gần giống như thế. Min
Chueh Chang (1909-1991), công sự Phincus, thử nghiệm các đặc tính chống rụng
trứng của những thuốc đó trên loài thỏ.
Nhưng chính sau cuộc gặp
gỡ giữa Pincus và John Rock (1890-1984) vào năm 1952, mọi việc mới tiến
triển đáng kể. John Rock là bác sĩ phụ khoa ở Boston đã tiến hành làm ngưng
sự rụng trứng của bệnh nhân bằng cách tiêm progestérone và oestrogène cho
họ. Khi giả tạo tình trạng có thai trong người bệnh nhân, không phải ông tìm
cácgh chặn đứng sự có thai mà ngược lại kích thích sự mang thai.
Những thí nghiệm tại
Puerto Rico đã thanh công mỹ mãn. Chỉ các phụ nữ tự ý không điều trị nữa mới
mang thai. Như thế, Pincus và các cộng sự đã tìm ra một loại thuốc ngừa thai
hiệu quả và không vĩnh viễn. Họ nhận thấy rằng những viên thuốc vô tình có
chứa thêm oestrogène trong lúc sản xuất lại ít có tác dụng phụ hơn. Họ bèn
đề ra một công thức, rồi phối hợp với phòng thí nghiệm Searle để tung ra
loại thuốc ngừa thai đầu tiên vào năm 1958: thuốc Enovid. Hai năm sau hãng
Syntex đưa ra loại thuốc ngừa thai thứ nhì: Ortho - Novum.
Theo Margaret Sanger và
nhiều người khác trong hội kế hoạch hóa gia đình, việc tìm ra viên thuốc
ngừa thai hữu hiệu và giai đoạn là rất cần thiết để cải thiện điều kiện sống
của phụ nữ. Thoát khỏi sự mang thai liên tục và không chủ ý, họ có thể tham
gia vào nhiều hoạt động xã hội bên cạnh đàn ông. Không còn lo ngại, họ sẽ có
cuộc sống tình dục hạnh phúc hơn.
Tuy nhiên, để ngạt bỏ các
thành kiến e ngại về chính trị hay tôn giáo, cần phải có một luận cứ khác.
Chính mối quan tâm về dân số sẽ tạo nên đạo đức cho sự ngừa thai. Dân số cao
sẽ dẫn đến nghèo đói, làm trì trệ sự phát triển.
Sự tiến hóa về tư duy đó
đã giúp phát triển một khía cạnh khác của sự sinh sản: mang thai có trợ giúp
bằng y học. Tuy đã được biết đến từ lâu, nhưng phương pháp thụ tinh nhân tạo
chỉ được thực hiện từ đầu thập niên 80. Kỹ thuật tương đối đơn giản này ít
ảnh hưởng hơn phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Năm 1969, nhà sinh học
Geoffroy Edwards lần đầu tiên cho thụ tinh in vitro thành công đối với
người. Đến năm 1978, Luouise Brown, cô bé trong ống nghiệm đầu tiên đã ra
đời ở Anh. Bốn năm sau, đến lượt Amandinne chào đời cũng bằng phương pháp
này tại Pháp.