Thuốc hạ lipid huyết

Tác giả : TS.DS. NGUYỄN HỮU ĐỨC (Đại học Y Dược - TPHCM)

Một trong những yếu tố quan trọng có thể dẫn đến các bệnh lý tim mạch, đặc biệt bệnh tim - mạch vành, là rối loạn lipid huyết. Nhiều người gọi là tăng lipid huyết, hay nôm na hơn là tăng mỡ trong máu.

Tăng lipid huyết là tình trạng các chất béo có trong máu như cholesterol, triglycerid vượt quá giới hạn bình thường. Đúng ra phải gọi là rối loạn lipid huyết vì có một thành phần chất béo (gọi là HDL - cholesterol) không tăng mà lại giảm là có hại.

Khái quát về sự vận chuyển và chuyển hóa lipid trong cơ thể

Khi tăng lipid huyết, chất béo thừa trong máu có thể sẽ đóng cặn trên thành động mạch, khiến lòng động mạch ngày càng hẹp đi, dẫn đến hiện tượng gọi là xơ vữa động mạch hoặc huyết khối tắc mạch. Từ đó sẽ gây bệnh lý ở tim, gọi là bệnh tim - mạch vành (thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim); Nếu xảy ra ở não thì gọi là tai biến mạch máu não (đột quỵ, nhũn não, xuất huyết não).

Để hiểu rõ sự tăng lipid huyết là gì và đặc biệt hiểu được cơ chế tác dụng của các thuốc hạ lipid huyết, ta cần hiểu một cách khái quát về sự vận chuyển cũng như chuyển hóa lipid trong cơ thể. Lipid là chất béo gồm nhiều loại, nhưng có 2 loại quan trọng là cholesterol và triglycerid. Sở dĩ nói quan trọng vì cholesterol được xem như nguyên liệu để cơ thể biến thành các chất sinh học khác (như tạo thành acid mật tạo mật và các hormone có cấu trúc steroid). Còn triglycerid sẽ chuyển thành acid béo và biến thành năng lượng. Là chất béo không tan trong nước, lipid chỉ có thể vận chuyển dễ dàng trong máu khi kết hợp với một chất đạm có tên là apoprotein, khi đó có dạng lipoprotein. Nhờ ở dạng lipoprotein mà cholesterol và triglycerid được vận chuyển đi khắp cơ thể và cung cấp các chất cần thiết cho hoạt động của tế bào. Tùy theo kích thước, tỷ trọng, loại apoprotein và thành phần lipid, người ta thấy có 2 loại lipoprotein liên quan đến chứng tăng lipid huyết là:

1. Lipoprotein tỷ trọng thấp (Low Density Lipoprotein, viết tắt LDL): Cholesterol của LDL thuộc loại cholesterol “xấu”. Vì LDL có vai trò chuyên chở cholesterol từ gan đi khắp cơ thể, nên nếu các tế bào của cơ thể không thu nhận, cholesterol thừa lưu thông trong máu sẽ tích tụ và tạo thành mảng xơ vữa trong lòng động mạch.

2. Lipoprotein tỷ trọng cao (High Density lipoprotein, viết tắt HDL: Cholesterol của HDL thuộc loại cholesterol “tốt”. Vì HDL có nhiệm vụ thu dọn, chuyên chở cholesterol dư thừa không cần thiết trở về gan để phần lớn biến đổi thành acid mật và bài tiết theo mật ra khỏi cơ thể. Như vậy HDL làm giảm nguy cơ gây xơ vữa, do đó còn được gọi là “bạn tốt bảo vệ tim”.

Sự chuyển hóa lipid trong cơ thể diễn ra theo 2 chu trình:

1. Chu trình ngoại sinh: Gọi là ngoại sinh vì cholesterol và triglycerid được đưa từ bên ngoài (thức ăn, thức uống) để vào cơ thể. Sau khi được hấp thu ở ruột dưới dạng các hạt nhỏ (gọi là chylomicron), triglycerid và cholesterol được đưa đến mô cơ, mỡ và tiêu thụ hay tích trữ một phần (triglycerid sẽ giảm đi vì bị enzym (men) lipoprotein lipase biến thành acid béo để chuyển thành năng lượng). Phần còn lại được vận chuyển đến gan tham gia vào chu trình nội sinh. Chính sự tổng hợp và chuyển hóa cholesterol ở chu trình nội sinh mới có ý nghĩa quan trọng.

2. Chu trình nội sinh: Gọi là nội sinh vì phần lớn cholesterol có trong cơ thể chúng ta được sinh tổng hợp ở gan. Từ hợp chất acetyl Co A ban đầu, gan sẽ thông qua chuỗi phản ứng để tạo thành cholesterol. Trong chuỗi phản ứng này cần đến một men có tên 3 - hydroxy - 3 methyl - glutaryl Co A reductase (viết tắt HMG - Co A reductase). Triglycerid và cholesterol được tổng hợp ở gan, cộng thêm triglycerid và cholesterol từ chu trình ngoại sinh đưa vào sẽ được LDL chuyên chở tới những tế bào của các mô khác để tiêu thụ. Để tiêu thụ các lipid vừa kể, các tế bào phải hình thành những nơi tiếp nhận nằm trên màng tế bào, gọi là thụ thể LDL để LDL gắn vào (LDL - receptor). Khi tế bào cần nhiều cholesterol thì sự tổng hợp hình thành các thụ thể LDL tăng lên. Nếu cholesterol không tiêu thụ hết, HDL sẽ chuyên chở cholesterol dư thừa từ mô ngoại biên ngược về gan để thoái hóa. Chính HDL cũng sẽ hấp thu các tinh thể cholesterol bắt đầu đóng trên thành mạch máu để đưa về gan, tức là chống lại việc tích tụ cholesterol gây xơ vữa. Tại gan, cân bằng với quá trình tổng hợp cholesterol nội sinh là sự làm giảm cholesterol bằng cách tạo ra acid mật và một số chất sinh học khác.

Nếu sự chuyển hóa lipid theo 2 chu trình (ngoại sinh và nội sinh) vừa kể điều hòa và cân bằng, tức không thừa và không thiếu thì không có hiện tượng rối loạn lipid huyết hay tăng lipid huyết. Nhưng nếu các yếu tố tạo nên hai chu trình bị tác động gây thừa hoặc thiếu thì sẽ gây rối loạn lipid huyết. Thí dụ như:

- Nếu thức ăn có nhiều cholesterol ngoại sinh và chất béo bão hòa (mỡ động vật) sẽ có nguy cơ làm tăng nồng độ cholesterol trong máu. Riêng việc ăn nhiều chất béo bão hòa sẽ làm tăng lipid ở gan, dẫn đến tăng acetyl Co A, là nguyên liệu gan dùng tổng hợp cholesterol, dẫn đến tăng cholesterol trong máu.

- Khi thức ăn có nhiều acid béo không bão hòa (dầu thực vật như dầu mè, dầu đậu nành...) hoặc rau cải có nhiều xơ sợi sẽ làm giảm nồng độ cholesterol trong máu. Cơ chế làm hạ lipid huyết của acid béo không bão hòa hiện còn chưa rõ, nhưng chất xơ sợi của rau cải hoặc bột lúa mạch sẽ làm acid mật không tái hấp thu từ ruột vào máu; Thiếu acid mật, gan sẽ dùng cholesterol tạo acid mật, do đó làm giảm cholesterol.

- Phụ nữ ở tuổi mãn kinh dễ bị tăng lipid huyết vì cơ thể không còn sản xuất hormone sinh dục nữ estrogen, mà estrogen giúp làm giảm LDL và tăng HDL.

- Người ít vận động dẫn đến béo phì, lại thêm hút thuốc lá sẽ bị giảm HDL. Người năng tập thể dục, giảm cân sẽ giúp tăng HDL trong máu.

- Khi bị tắc mật do bệnh gan hoặc bị bệnh tiểu đường không điều trị sẽ làm lượng cholesterol trong máu tăng.

Để biết có bị chứng tăng lipid huyết hay không, cần phải làm xét nghiệm máu đo 4 thành phần lipid: Cholesterol toàn phần, triglycerid, cholesterol trong LDL (viết tắt LDLc), cholesterol trong HDL (HDLc). Kết quả xét nghiệm sẽ cho mỗi thành phần lipid một trị số. Nếu trị số kết quả thấp hơn trị số mong muốn (hay còn gọi là mức đích) đối với 3 thành phần cholesterol toàn phần, triglycerid, LDLc và cao hơn đối với HDLc thì không bị chứng tăng lipid huyết, hoặc bị nhưng đã dùng thuốc chữa khỏi. Nếu trị số kết quả nằm trong khoảng giới hạn thì cần cảnh giác. Nếu trị số kết quả cao hơn mức báo động (còn gọi là nguy cơ cao, riêng đối với HDLc trị số kết quả thấp hơn) thì đã bị chứng tăng lipid huyết và cần phải điều trị (Xem bảng)

Giá trị mong muốn, giá trị giới hạn và mức báo động đối với một số thành phần lipid huyết.

 

Thành phần lipidMong muốnGiới hạn Nguy cơ cao
Cholesterol< 5,2 mmol/l

(200mg/dl)

5,2-6,2 mmol/l

(200-239 mg/dl)

> 6,2 mmol/l

(240mg/dl) 

Triglycerid< 2,3mmol/l

(200mg/dl)

2,3-4,5mmol/l

(200-400mg/dl)

4,5-11,3mmol/l

(400-1.000mg/dl)

Lipoprotein tỷ trọng thấp (LDLc)< 3,4 mmol/l

(130mg/dl)

3,4-4,1mmol/l

(130-159mg/dl)

> 160mg/dl
Lipoprotein tỷ trọng cao (HDLc)> 1,5mmol/l

(60mg/dl)

 < 0,9mmol/l

(35mg/dl)

Hai loại tăng lipid huyết:

* Tăng lipid huyết tiên phát: Liên quan đến di truyền, tức là người bệnh bẩm sinh có sự khiếm khuyết về gen, dẫn đến thiếu lipoprotein, lipase để phân giải triglycerid, làm giảm thành phần này xuống hoặc bề mặt tế bào không tổng hợp đủ thụ thể LDL để tiếp nhận LDL và tiêu thụ nên làm giảm lượng cholesterol.

* Tăng lipid huyết thứ phát: Do chế độ ăn uống (ăn quá nhiều mỡ động vật, uống quá nhiều rượu), do bị bệnh (tiểu đường kiểm soát kém, suy giáp, suy thận), do thuốc (thuốc lợi tiểu thiazid, glucocorticoid, chẹn beta, thuốc trị mụn trứng cá isotretionoid...).

Nhờ hiểu rõ quá trình vận chuyển và chuyển hóa lipid trong cơ thể, người ta đã tìm ra các thuốc có những cơ chế tác động khác nhau để hạ lipid huyết khi các thành phần lipid tăng cao trong máu. Đặc biệt, ngoài dùng thuốc, còn kết hợp với chế độ dinh dưỡng và vận động rèn luyện thân thể thích hợp để đạt hiệu quả cao hơn.

Sử dụng các thuốc hạ lipid huyết. (Xem tiếp kỳ sau)

Chú thích ảnh: - Hình ảnh tác động của thuốc lên mảng cholesterol ở thành mạch máu.  

 


Thuốc

Kiến thức Dược
Thuốc kháng sinh
Thuốc ngừa thai và hệ sinh dục
Thận trọng và cách dùng thuốc


Danh mục thuốc theo tên hóa học
Khái niệm thuốc
Kiến thức Dược
Thuốc kháng sinh
Thuốc men và cách dùng thuốc
Thuốc ngừa thai và hệ sinh dục
Thận trọng và cách dùng thuốc
Tra cứu dược phẩm
Trang chủ thuốc, dược phẩm, thực phẩm, dinh dưỡng
Vaccine và chủng ngừa