NHỮNG LOẠI THUỐC LỪNG DANH THẾ KỶ 20

DS. TRƯƠNG TẦT THỌ

Trong thế kỷ 20, nhiều loại thuốc được khám phá đã làm thay đổi bộ mặt thế giới, ảnh hưởng mạnh mẽ đến công tác chăm lo bảo vệ sức khỏe con người cũng như tạo thêm những bệnh mới được gọi là hậu quả của nền văn minh. Đấy là những thuốc nào?

ASPIRIN, VIÊN THUỐC TRÒN TRẮM TUỒI VẪN CÒN MANG NHIỀU BÍ ẪN...

Từ những công trình nghiên cứu ban đầu của DS Charles F. Gehrard (Pháp) năm 1853, nhà khoa học Đức thuộc hãng Bayer là Felix Hoffmann đã cùng cộng sự tổng hợp và cho ra đời chất acid acetyl salicylic vào năm 1897 và được đặt tên thương mại là Aspirin. Đến bây giờ thì toàn thể thế giới không ai xa lạ gì với viên thuốc giảm đau hạ sốt, kháng viêm với hàng ngàn tên thương mại có hoạt chất là aspirin cổ xưa. Tuy hiện nay có paracetamol và nhiều thuốc khác cạnh tranh nhưng điều đó cũng không ngăn cản được việc tiêu thụ hàng nhiều tấn thuốc aspirin trên toàn thế giới.

? Tác dụng cổ điển: Giảm đau bề mặt cấp hay mãn tính như nhức đầu, đau răng, thấp khớp... ít giảm đau nội tạng như đau bụng, đau thận... Hạ sốt, tăng thải nhiệt, toát mồ hôi. Chống viêm nhờ ức chế sự tổng prostaglandin. Ngoài ra còn có tác dụng chống kết tập tiểu cầu làm tăng thời gian chảy máu.

? Những phát hiện mới đa công dụng

- Giảm nguy cơ tắc nghẽn động mạch gây tai biến mạch máu não, hạ thấp tỷ lệ tử vong nhờ sử dụng aspirin với liều thấp từ 100 đến 300mg/ngày. Hiện nay chưa thống nhất liều dùng trong tai biến mạch máu não mà không cần kiểm tra sinh học.

- Phòng ngừa tai biến nhồi máu cơ tim: khi bị nhồi máu cơ tim, nếu uống ngay một viên aspirin thì có đến 20% giảm được nguy cơ và nếu dùng 160mg/ngày thì có đến 50% hy vọng khỏi tái phát nhờ tác dụng chống đông máu làm tắc nghẽn động mạch. Theo một công trình nghiên cứu khác với liều từ 300-1500mg trên những bệnh nhân tim mạch thì tỷ lệ tử vong giảm được 10 và 30% cho những người đã từng bị tai biến còn sống và nay bị trở lại. Với những người thuộc nhóm nguy cơ cao như cao huyết áp, nghiện thuốc lá, cao cholesterol trong máu thì việc dùng aspirin thường xuyên với liều 300mg/ngày sẽ giảm được tai biến. Một thử nghiệm đối chiếu việc dùng aspirin liều 50mg/ngày với các nhóm khác dùng thuốc chống đông máu cho kết quả khích lệ là tai biến mạch máu chỉ xảy ra 13% với nhóm dùng aspirin so với 16% và 20% so với các nhóm dùng triệu chứng đông. Các công trình nghiên cứu vẫn còn tiếp tục để xác định liều lượng tối ưu, độc tính nếu dùng lâu dài.

- Giảm nguy cơ tử vong do ung thư đại tràng: Theo nhận định của Tiến sĩ Lynn Rosenberg thuộc trường ĐH Boston (USA) qua các thí nghiệm lâm sàng thì việc sử dụng thường xuyên aspirin đã làm giảm tỷ lệ ung thư ruột kết có thể do tác động kiềm hãm sự tổng hợp prostaglandin gây viêm và tiến triển của khối u, nhất là với người cao tuổi.

- Những thông tin khác: Với phụ nữ mang thai mà gia đình có tiền sử động kinh thì việc sử dụng một liều aspirin từ tháng thứ tư đến tháng thứ sáu sẽ giúp giảm tai biến động kinh khi sanh. Ngoài ra aspirin còn có khả năng chống lại các gốc tự do nội sinh trong cơ thể gây hiện tượng già lão, nghĩa là aspirin còn có thể dùng làm thuốc trường sinh.

Hiện nay các nhà khoa học còn đang nghiên cứu về các tác dụng mới khám phá của aspirin. Tuy nhiên để phòng những phản ứng phụ do thuốc này gây ra, việc sử dụng thường xuyên và lâu dài cần có ý kiến chỉ định của thầy thuốc.

AMIN CẨN CHO SỰ SỐNG VÀ CÔNG NGHIỆP THUỐC BỒI DƯỠNG

Thuốc bổ đa sinh tố là một công nghiệp khổng lồ chiếm một thị phần đáng kể trên toàn thế giới. Năm 1911, Funk phân lập được từ cám một chất kết tinh có đặc tính chữa trị được bệnh tê phù. Đấy là một gốc amin cần thiết cho sự sống nên gọi là amin vital sau này trở thành vitamin. Ngày nay mọi người có thói quen xem sinh tố là thuốc bổ nhưng thực ra đó là những chất xúc tác sinh học cần thiết cho những phản ứng biến dưỡng trong cơ thể, nếu thiếu thì cơ thể sẽ bị rối loạn.

? Các nhóm vitamin

Một cách tổng quát, vitamin được chia làm hai nhóm:

- Nhóm tan trong nước gồm vitamin B1, B2, B3, B5, B6, B8, B9, B12, vitamin C.

- Các Nhóm tan trong dầu gồm vitamin A, D, E, K.

? Công dụng cổ điển

- Vitamin liều thấp: Cần có để làm chất xúc tác cho các phản ứng sinh học trong cơ thể. Trường hợp thức ăn không mang lại đầy đủ sinh tố thì các rối loạn xảy ra như bị phù thủng, rối loạn tiêu hóa, tổn thương da, mệt mỏi, đau cơ, rụng tóc, chảy máu chân răng...

- Vitamin liều cao: vitamin A liều cao dùng trị khô mắt, khô kết, giác mạc. Kết hợp B1-B6-B12 liều cao dùng trị các đau nhức thần kinh cơ bắp, thấp khớp, suy dinh dưỡng do nghiện rượu. Vitamin C liều cao gia tăng tính đề kháng của cơ thể chống lại các bệnh nhiễm trùng.

? Những công dụng mới

- Vitamin làm đẹp da, tóc: Dùng rất nhiều trong kỹ nghệ mỹ phẩm, dược phẩm để làm da dẻ mịn màng, tóc óng mượt như các vitamin A, B1, B2, B5, B6, B9, B12, vitamin H dùng trị mụn, viêm da, da mặt tiết nhiều chất nhờn, viêm da dị ứng, tóc dễ gãy, tóc bạc sớm, rụng tóc, khô tóc, giúp da hồng hào, bớt xanh xao vàng vọt, giảm vết nhăn của da.

- Vitamin chống ung thư làm trẻ tế bào: Chất tiền sinh tố A (bêta-caroten) có tác dụng chống oxy hóa mạnh, góp phần làm chậm quá trình lão hóa của cơ thể. Trong cơ thể các gốc tự do do các phản ứng chuyển hóa tạo nên, sẽ phá hủy ADN và ARN của tế bào gây đột biến gen trị ung thư, đồng thời làm thoái biến các mô gây nên bệnh lão suy.

- Phối hợp làm thuốc chống già: Các vitamin A-C-E kết hợp với vi lượng tố selenium để chống lão hóa làn da và trị các bệnh lão suy như: chống sự tăng trưởng của khối u, phá hủy và hóa giải các tác nhân gây ung thư, tăng tuổi thọ hồng cầu, cung cấp oxy cho tế bào, chống mệt mỏi, ngăn ngừa hình thành huyết khối, tăng sức đề kháng cho cơ thể.

Tuy phổ biến và thông dụng như thế nhưng hiện nay công dụng của vitamin vẫn còn được điều tra sâu rộng và kéo dài trong 8 năm với số người tham gia thử nghiệm lên đến 100.000. Công trình nghiên cứu mang âm hưởng một cuộc hành quân được đặt tên là Suvimax (Su=supplementation: chất phụ trợ dinh dưỡng; Vi=vitamines: sinh tố; M=minéraux: khoáng chất; Ax=anti-oxydants: chất chống oxy hóa). Các nhà khoa học muốn tìm hiểu kỹ đâu là tác dụng thật của vitamin, đâu là tác dụng tâm lý nhưng có hiệu năng trị bệnh phát xuất từ niềm tin của bệnh nhân. Kết quả cuộc hành quân Suvimax sẽ là giải đáp khoa học cho vấn đề trên.

NGỌN GIÓ VÔ TÌNH VÀ CUỘC CÁCH MẠNG ĐIỀU TRỊ DO KHÁNG SINH MANG LẠI

Bệnh nhiễm khuẩn luôn là mối lo của con người trong việc điều trị. Năm 1929, nhà sinh vật học Alexander Fleming đang nuôi cấy vi khuẩn Staphylococus trong môi trường thạch để chúng phát triển. Mùa hè Luân Đôn nóng oi bức khiến các cửa sổ phòng thí nghiệm được mở rộng. Và ngọn gió vô tình mang theo những hạt bụi rơi vào môi trường cấy. Sau đó quan sát trên kính hiển vi, nhà bác học Fleming đã ngạc nhiên thấy vi khuẩn bị tiêu diệt, một vòng trắng trong hiện ra chung quanh nấm mốc. Đấy chính là nấm Penicillium có đặc tính tiêu diệt nhiều loại vi trùng gây bệnh. Năm 1941, cùng với Chain và Florey, kháng sinh liệu pháp chống các bệnh nhiễm trùng chính thức ra đời và mang lại giải Nobel y học cho nhà bác học Fleming vào năm 1945. Công nghiệp điều chế thuốc kháng sinh bắt đầu phát triển.

? Kháng sinh cổ điển

Ban đầu nhiều loại kháng sinh được bào chế từ vi nấm như Penicillin từ nấm Penicillium notatum, Chloramphenicol từ vi nấm Streptomyces Venezuela hoặc từ vi khuẩn như Polymycin từ vi khuẩn Bacillus Polymyxa tiết ra... Sau đó kháng sinh được điều chế bằng cách tổng hợp hoặc bán tổng hợp. Các kháng sinh cổ điển quen thuộc được dùng nhiều và vi khuẩn cũng đã lờn thuốc nhiều như Peni, Strepto, Tetra, Amox, Ampi v.v...

? Kháng sinh thế hệ mới

Đó là các nhóm céphalosporin thế hệ 1, 2, 3 cùng các thuốc có cấu trúc quinolon để chống lại các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn sống sót qua những lần điều trị bằng kháng sinh, có khả năng đề kháng lại những kháng sinh cổ điển.

Việc phát sinh ra kháng sinh đã đưa một số bệnh nhiễm trùng nan y trước đây không chữa trị được nay trở thành không còn nan y nữa. Thế nhưng việc dùng kháng sinh không đúng cách cùng với nạn lạm dụng kháng sinh đã đưa nhân loại mắc phải những bệnh mới do chủng vi khuẩn bị biến đổi và bệnh do tác dụng phụ của kháng sinh gây ra.

MA TÚY VÀ NỖI LO CỦA NHÂN LOẠI

Phù dung tiên nữ từ xa xưa đã nổi tiếng trong xã hội tạo nên nạn nghiện ngập ma túy. Năm 1925, Grellan và Robinson xác định được cấu trúc hóa học của Morphin và đến năm 1952 Morphin được tổng hợp, là thuốc thần trị mọi chứng đau nặng. Tác dụng chính của morphin là giảm đau nhưng đồng thời cũng là chất gây nghiện. Hiện nay nhân loại đang phải đối phó với một dẫn chất quen thuộc của morphin, đó là heroin cùng những thuốc an thần giảm lo gây nghiện như seduxen, valium... tạo nên tai họa cho nhiều gia đình nhất là giới trẻ. Những đường dây buôn bán ma túy liên quốc gia hoặc mang tính toàn cầu tạo nên nỗi lo chung cho thế giới.

THUỐC ĐIỀU KINH TRỞ THÀNH PHƯƠNG TIỆN KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH

Sự ra đời của các thuốc điều kinh sau này trở thành phương tiện ngừa thai nổi tiếng và thông dụng trên toàn thế giới có mang một màu sắc bí ẩn. Nội tiết tố Progesterone có nguồn gốc động vật hoặc tổng hợp quá mắc, không thể sử dụng đại trà được. Nhà hóa học cô đơn Russel Marker đã rời bỏ giảng đường đại học đi vào vùng Mexico tìm loại thảo mộc có thể cho một nội tiết tố tác dụng tương tự như Progesterone. Và từ những bao thảo mộc thu hái được, ông ly trích được progesterone. Sau khi thành công, nhà bác học Russel Marker đã biến mất, không ai biết ông đi đâu. Công việc được tiếp nối với BS Pincus và BS John Rock để có sự kết hợp Progesterone - Oestrogen dùng điều kinh và kế hoạch hóa gia đình. Ngày nay thuốc viên ngừa thai trở thành một phương tiện hữu hiệu giúp nhân loại hạn chế đà phát triển dân số.

GIẢI NOBEL 1998 VÀ... VIAGRA

Viết về những loại thuốc lừng danh thế kỷ 20 không thể không nhắc đến Viagra. Ngay từ khi mới chào đời, Viagra đã tạo nên một tên tuổi lẫy lừng trên thế giới đến nỗi tạo ra những hiệu ứng cuồng Viagra. Đây là thuốc giúp trị rối loạn cương dương, xuất xưởng ở Mỹ dưới dạng lọ 30 viên, loại 25, 50, 100mg. Tháng 10/1998, Viagra được phép lưu hành tại Pháp dưới dạng hộp 4 viên loại 50mg. Giải Nobel Y học 1998 được trao cho ba nhà bác học thuộc các trường đại học Hoa Kỳ, đó là các GS Robert F. Furchgott (82t), Louis J, Ignarro (57t), Ferid Murad (62t) với các công trình nghiên cứu về Oxid nitric. Từ lâu, Nitroglycerin đã được sử dụng làm thuốc trị cơn đau thắt ngực, làm giãn tĩnh mạch, trương mạch vành, điều trị suy tim. Công dụng trên là do một phân tử nội tại, đó là oxid nitric. Từ đó giúp định hướng cho các nghiên cứu khác trong việc chữa trị các bệnh tim mạch. Và trên con đường tìm kiếm những hoạt chất mới trị cơn đau thắt ngực, người ta phát hiện phân tử Sildenafil citrat (Viagra). Hoạt tính của chất này có liên quan đến vai trò của Oxid nitric (NO), tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng đến sự cương cứng nhiều hay ít và Viagra sẽ giúp cho Oxid nitric tăng tác dụng để trị bất lực hay rối loạn cương dương.

Tóm lại, khoa học luôn tiến bộ không ngừng để mang lại thật nhiều tiện nghi cho cuộc sống. Trên lĩnh vực thuốc men, mục tiêu tương lai ở thế kỷ 21 sẽ là nỗ lực tìm ra các phương tiện phòng ngừa và điều trị căn bệnh hiểm nghèo đang là nguy cơ cao của nhân loại, đó là nhiễm HIV/AIDS. Tuy nhiên vẫn có những thành công khoa học vang dội nhưng còn gây nhiều tranh cãi như việc sinh sản vô tính với chú cừu Dolly nổi tiếng chưa biết sẽ là thành công hay tai họa cho nhân loại ở thế kỷ 21. Vì thế nên khoa học mà thiếu lương tâm sẽ chỉ còn là sự tàn lụi của tâm hồn (Science sans conscienne n'est que ruine de l'âme-Pascal).


Thuốc

Kiến thức Dược
Thuốc kháng sinh
Thuốc ngừa thai và hệ sinh dục
Thận trọng và cách dùng thuốc


Danh mục thuốc theo tên hóa học
Khái niệm thuốc
Kiến thức Dược
Thuốc kháng sinh
Thuốc men và cách dùng thuốc
Thuốc ngừa thai và hệ sinh dục
Thận trọng và cách dùng thuốc
Tra cứu dược phẩm
Trang chủ thuốc, dược phẩm, thực phẩm, dinh dưỡng
Vaccine và chủng ngừa