MÙA LẠNH ĐỀ PHÒNG VIÊM PHỔI TRẺ EM
BS. NGUYỄN VĂN THỂ
Cứ đến mùa lạnh bệnh viêm
nhiễm cấp đường hô hấp lại tăng lên, tỷ lệ tử vong ước tính 3 triệu trẻ dưới
5 tuổi. Theo tổ chức y tế thế giới thì tỷ lệ trẻ em bị tiêu chảy, viêm phổi,
sởi, sốt rét và suy dinh dưỡng rất cao và họ đã cảnh báo trong vòng 10 - 20
năm tới các bệnh trên là nguyên nhân gây tử vong ở trẻ em. Qua khuyến cáo ta
thấy sự phấn đấu của bệnh viện Nhi Đồng I, hạ tỷ lệ tử vong các bệnh hô hấp
từ 2,15% (1990) còn 1,14% (1993) là vô cùng quý giá. Tổ chức y tế thế giới
xếp nhóm viêm phổi (VP) gồm: Viêm phế quản, viêm phế quản phổi, viêm phổi
thùy? phổi. Kháng thể từ mẹ truyền sang con chủ yếu trong 10 tuần cuối thời
kỳ có thai do đó trẻ đẻ non sẽ nhận ít kháng thể nên dễ bị nhiềm khuẩn nói
chung hay viêm phổi nói riêng. Trẻ sơ sinh đường hô hấp hẹp và ngắn (dễ bị
tắc, viêm lan tỏa), niêm mạc có nhiều mao mạch (dễ bị phù nề, xuất tiết)
v.v... khi viêm phổi hay bị suy hô hấp, ngùng thở, kiệt sức. Môi trường ô
nhiễm bởi khói bếp, khói thuốc lá, khói các nhà máy hay những nơi khác. Viêm
phổi có thể do vi khuẩn (tụ cầu, liên cầu, phế cầu v.v...), virus (như RSV,
cúm, sởi v.v...), nấm (Candida Albican), nằm bất động lâu ngày v.v. Có tác
giả cho rằng nguyên nhân do virus chiếm phân nữa các trường hợp viêm phổi.
Vi khuẩn gây bệnh bình thường sống ở mũi, họng, vật dụng (quần áo, chăn,
chiếu v.v...) khi điều kiện thuận lợi (trời lạnh, suy dinh dưỡng, nơi ở ẩm
thấp v.v...) thì gây bệnh. Viêm phổi do virus lây lan nhanh, không có thuốc
đặc trị, dễ bị bội nhiễm, thời gian điều trị kéo dài, tốn kém nhiều.
Như đã nói ở phần trên,
đặc điểm cơ thể trẻ em rất dễ bị viêm phổi trong mùa lạnh. Đối với trẻ sơ
sinh và dưới 1 tuổi, dấu hiệu nhiễm khuẩn không điển hình dễ lẫn lộn với các
bệnh khác đường hô hấp khác, làm cho người ta dễ bỏ qua. Nôn trở, ăn ít hay
bỏ bú, tiêu chảy. Nhiều khi ngủ li bì, thay tả lót không thức. Thỉnh thoảng
chảy nước mũi, hắt hơi, ho, khò khò, thở hơi nhanh và nồng. Sốt thất thường,
nếu có thì không cao (37 - 78oC). Trẻ sinh non, có dị tật bẩm
sinh hầu như không sốt, có khi còn hạ dẳng khác. Cần theo dõi và phát hiện
các triệu chứng trong thời kỳ này để điều trị sẽ đạt hiệu quả cao, nếu
không, đưa đến tình trạng: Thở rên, có cơn ngừng thở, tim nhanh, tím tái
quanh môi (khi khóc), cách mũi phập phồng, rút lõm lồng ngực, vật vã, co
giật, chướng bụng, sốt cao (trên 390C) v.v. điều trị tốn kém
nhiều nhưng kết quả không chắc chắn. Trẻ lớn, dấu hiệu viêm phổi rõ ràng, dễ
phát hiện: Sốt 39 - 400C, thở nhanh nhưng không sâu, co kéo lõm
ức và khoang liên sườn, xanh tím môi và đầu chi, ho khan màng não hay đau
bụng (dễ lầm với viêm ruột thừa), viêm khớp nhiễm trùng, đau ngực, do virus:
thường đau cơ, ngoại ban, viêm kết mạc, viêm họng, loét miệng, tiêu chảy. Để
xác định chắc chắn bệnh viêm phổi, ngoài các chứng ở trên cần nghe phổi (có
ran ấm hay nổ, thổi ống, gõ đục), xét nghiệm (thường bạch cầu tăng cao),
chụp phổi (nhiều đám mờ rãi rác, to nhỏ không đều ở 2 phế trường), làm kháng
sinh đồ.
Không để trẻ bị lạnh nhất
là lúc thời tiết thay đổi, gió mùa đông bắc v.v... bằng cách mặc đủ ấm, ra
khỏi nhà buổi sáng phải choàng khăn cổ, đội mũ, đi dép hoặc giầy. Không nên
để trẻ thức khuya hay dậy sớm quá. Cho trẻ ăn đầy đủ (thịt, cá, rau, quả),
không để khát nước... Khi phát hiện trẻ ho, sổ mũi, sốt v.v... phải đưa đi
khám bệnh, không được tự mua thuốc để uống. Tùy theo tuổi, mùa trong năm,
người nhà phải đem trẻ tiêm ngừa đúng lịch do cơ quan y tế đề ra.
Nơi ở phải thông thoáng,
tránh gió lùa, xa các nhà máy, công trường. Khi hút thuốc lá không được đến
gần các cháu, nên hút ở phòng riêng. Bồng bế trẻ ở tư thế dễ ho, khạc nhỗ,
chảy nước mũi. Khó thở nhiều (nhịp thở trên 60 lần/phút) cho thở oxy ấm bằng
ống thông mũi họng, ều chụp đầu v.v... Sốt cao, lau mát, uống nhiều nước
(nếu không uống được cho qua thông dạ dày) hay Paracetamol 0,05g/kg/ngày.
Trong phổi do vi khuẩnc ó thể uống: Amoxicllline, Rovamycine, Unasyn,
Zitromax, trường hợp nặng thì tiêm Benzyl Pénicillin + Gentamycin, Cefobis,
Rocéphine. Kháng sinh luôn là thuốc điều trị đặc hiệu các viêm phế quản phổi
(viêm phổi) ở trẻ dưới 3 tuổi đủ nguyên nhân do virus. Dùng mọi biện pháp
làm thông đường thở để giảm khó thở và cho oxy vào tận phổi, cách đơn giản
và đạt hiệu quả cao là vỗ rung liệu pháp hô hấp. Nếu trẻ co giật, quấy khóc
cho Valium (Seduxen) 1 - 2 mg x 2 lần/ngày.
Tỷ lệ tử vong do viêm
phổi ở trẻ em còn khá cao, nhất là các nước nghèo nàn, lạc hậu. Với điều
kiện nước ta hiện nay cố gắng giữ ấm cho trẻ trong mùa lạnh và cho ăn no là
đạt hiệu quả phòng bệnh. Cơ quan y tế phải tổ chức tốt công tác tiêm ngừa
nhất là vùng sâu, vùng xa, miền núi. Viêm phổi không đáng sợ nếu ta biết các
phòng bệnh và trị kịp thời.