Chứng đái dầm có thể chữa được
Đái dầm là chuyện mà đa số các bậc cha mẹ và trẻ ngại nhắc tới. Rất nhiều người không nhận ra rằng hiện đã có những phương pháp điều trị hiệu quả và chứng bệnh này có thể được chữa khỏi trong một thời gian ngắn.
Đái dầm phổ biến hơn người ta tưởng rất nhiều. Hiện tượng này hay gặp ở trẻ nhỏ, hiếm gặp hơn ở tuổi học sinh. Theo Viện Hàn lâm Nhi khoa Mỹ, khoảng 20% trẻ 5 tuổi và 3% trẻ 12 tuổi có những đợt đái dầm. Tại Mỹ, có khoảng 5-7 triệu trẻ trên 6 tuổi mắc chứng đái dầm.
Đái dầm rất hiếm khi liên quan tới những bệnh lý như nhiễm trùng tiết niệu hay tiểu đường. Trong một số trường hợp, những khó khăn tâm lý như sự lo lắng có thể đóng vai trò nhất định. Tuy nhiên, theo bác sĩ Mark Zaontz, Trưởng khoa Tiết niệu Nhi tại một bệnh viện khu vực ở New Jersey (Mỹ), yếu tố di truyền đóng vai trò rất quan trọng - đái dầm liên quan nhiều tới nhiễm sắc thể số 13.
Theo ông Zaontz, khả năng mắc chứng đái dầm ở một trong những người con trong gia đình sẽ là:
- 77% nếu cả cha và mẹ đều từng đái dầm khi nhỏ.
- 44% nếu một trong hai phụ huynh từng bị đái dầm.
- 15% nếu cả cha và mẹ không đái dầm.
Không phải bao giờ cũng là bất thường về hành vi
Chẩn đoán đái dầm được đưa ra khi trẻ không thể giữ khô giường, trong khi đã lên 5-6 tuổi. Bệnh lý này hay gặp ở bé trai hơn bé gái. Giáo sư Alan Greene, Đại học Tổng hợp Stanford (Mỹ), nói: "Phần lớn phụ huynh coi chứng đái dầm là bất thường về hành vi hay tâm lý, và họ cố gắng giải quyết vấn đề theo hướng này. Tuy nhiên, đái dầm chỉ được coi là mang tính hành vi nếu trước đó, trẻ từng không "tè" ra giường trong ít nhất 6 tháng". Theo ông Green, đái dầm là sự kết hợp của hai yếu tố quan trọng ở trẻ:
- Nhu cầu đi tiểu về đêm cao hơn bình thường.
- Hệ thống tín hiệu bên trong (giúp đánh thức ta dậy ban đêm khi có nhu cầu tiểu tiện) chưa hoàn thiện.
Khi lớn lên, người ta thôi không đi tiểu nhiều về đêm và dễ tỉnh giấc khi ngủ. Chỉ một trong hai yếu tố này không đủ gây ra chứng đái dầm. Bệnh lý chỉ xuất hiện khi có sự kết hợp của cả hai yếu tố nói trên.
Hai phương pháp điều trị phổ biến
Hai phương pháp điều trị được các bác sĩ đánh giá là hiệu quả nhất gồm:
1. Tác động lên hệ thống tín hiệu bên trong
Trẻ được mặc đồ lót hoặc quần áo ngủ có cài đặt những bộ phận cảm biến đặc biệt với độ ẩm. Chuông báo động sẽ kích hoạt ngay khi xuất hiện một giọt nước. Vì trẻ đái dầm thường ngủ rất say, nên ban đầu, chuông báo động thường chỉ đánh thức được người lớn trong gia đình, những người này sẽ đưa trẻ vào nhà vệ sinh. Việc bị đánh thức và đưa vào nhà vệ sinh hết đêm này đến đêm khác có thể giúp trẻ phát triển hệ thống tín hiệu để tự thức dậy khi cần thiết.
Bác sĩ Zaontz, chuyên gia về bệnh tiết niệu của trẻ em giải thích: "Điều này giống như khi bạn bắt đầu một công việc mới, và phải dậy sớm hơn nhiều. Đầu tiên, bạn cần đến đồng hồ báo thức. Nhưng sau một thời gian luôn bị đánh thức vào cùng một thời điểm, cuối cùng bạn có thể tự tỉnh dậy vài phút trước khi đồng hồ đổ chuông. Thiết bị chống đái dầm hoạt động theo nguyên tắc đơn giản đó, và thường thu được kết quả tốt đẹp sau khoảng 12 tuần".
2. Dùng thuốc giảm bài tiết nước tiểu trong đêm
Đó là thuốc DDAVP, dạng tổng hợp của hoóc môn vasopressin. Hoóc môn này được cơ thể sinh ra một cách tự nhiên nhằm làm giảm lượng nước tiểu sản xuất về ban đêm. Thuốc tỏ ra rất hiệu quả, giúp trẻ đi tiểu ít hơn về đêm. Nếu dùng thuốc đều đặn, trẻ sẽ tạo được cho mình thói quen thường xuyên không tè ra giường cho tới khi khỏi bệnh.
Hai phương pháp này tuy được các bác sĩ khuyên dùng nhiều nhất nhưng lại không hay được cha mẹ áp dụng. Trừng phạt trẻ là hình thức phổ biến nhất mà các bậc phụ huynh thường làm khi thấy con đái dầm. Điều này chỉ làm cho mọi việc xấu đi.
Theo các chuyên gia, cha mẹ và trẻ cần mạnh dạn trao đổi về tình trạng của trẻ với bác sĩ để tìm phương pháp điều trị. Phụ huynh cũng cần hiểu rằng đái dầm không phải lỗi của trẻ và nằm ngoài tầm kiểm soát của các cháu.
Thu Thủy (theo WebMD, AP)