Co giật ở trẻ em
Trẻ sốt cao dễ bị co giật. |
Ở trẻ mới sinh, động kinh biểu hiện bằng những co giật sơ sinh lành tính, thường gặp ở bé trai bắt đầu từ ngày 2 tới ngày thứ 21. Cần hỏi bác sĩ để phân biệt với cơn do rối loạn chuyển hóa, viêm màng não sơ sinh, nhiễm virus...
Động kinh ở trẻ sơ sinh thường biểu hiện dưới dạng giật cơ có tính chất cục bộ,
sau đó có thể lan tỏa từ một bên sang bên đối diện.
Có thể có nhiều cơn dẫn
tới động kinh liên tục. Tiến triển nói chung tốt. Một vài trẻ ở khoảng 2-6 tuần
tuổi có thể không còn cơn lâm sàng, nhưng điện não đồ vẫn chưa hoàn toàn ổn
định.
Tuy nhiên, cũng cần cảnh giác đối với
các trường hợp co giật sơ sinh kéo dài, có tính định hình (khu trú
tổn thương) và toàn bộ lúc thu phát. Cần theo dõi xem có phải do
sinh khó, phẫu thuật, viêm màng não, rối loạn, dị dạng mạch máu não.
Ở trẻ đang bú và trẻ nhỏ:
- Co giật do sốt cao: Là những cơn co giật toàn bộ xảy ra
khi bệnh nhân ở tình trạng sốt cao. Cần phân định co giật do sốt cao
và động kinh. Nhiệt độ gây co giật thường là trên 39 độ C và thường
gặp ở trẻ gái, nhất là trẻ gái dưới 1 tuổi. Co giật do sốt cao là
điều kiện thuận lợi để phát triển thành động kinh, nhất là với những
trường hợp co giật nhiều lần và kéo dài trong ngày.
- Hội
chứng West: Thường gặp ở trẻ trai khoảng 7 tháng đến 1 tuổi với
3 triệu chứng: co thắt, rối loạn phát triển tâm lý vận động và có
hình ảnh loạn nhịp cao điện thế ở điện não đồ. Các cơ co thắt, thể
hiện ở việc đầu bệnh nhi cúi gập mạnh, hai tay có cử động vái chào.
Cơn thường rất nhanh (1-15 giây), liên tiếp, có thể tới 30 cơn.
- Cơn mất trương lực - vắng ý thức: Thường gặp ở trẻ trai
5-8 tuổi và quá nửa là có liên quan tới bệnh não, còn gọi là hội
chứng Lennox-Gastaut. Triệu chứng: các cơn động kinh trương lực,
vắng ý thức, các nhịp sóng chậm ở điện não đồ và rối loạn tâm lý.
Các cơn trương lực có thể biểu hiện ở dạng kín đáo; các động tác đảo
nhãn cầu và biến đổi nhịp thở thường xảy ra lúc trẻ đang ngủ. Có thể
có cứng chi, động tác tự động, giật cơ mi, cơ quanh miệng đồng thời
với cơn vắng: bệnh nhi gục đầu, há miệng hoặc có khi còn chảy dãi.
Trẻ có thể chậm phát triển tâm lý vận động, rối loạn tính tình, ở
trẻ lớn hơn còn có rối loạn chú ý (học kém, khó học tập, khó tiếp
thu...).
Ở tuổi đi học (từ tiểu
học tới năm đầu của trung học phổ thông)
-
Động kinh cơn vắng: Thường xảy ra ở trước tuổi dậy thì, ở trẻ
gái (70%). Cơn khởi đầu và kết thúc đột ngột, có rối loạn ý thức,
cơn nhanh chừng 4-15 giây, sau đó bệnh nhi tỉnh dậy và trở lại bình
thường. Biểu hiện chung của cơn vắng là mất nhận thức và mất phản
ứng, đồng thời ngưng mọi hoạt động...
- Động kinh cục bộ: Động kinh cục bộ lành tính chiếm tỷ lệ
40-60% các loại động kinh ở trẻ em; thường có cơn đầu tiên vào
khoảng 6-10 tuổi. Có thể có hiện tượng thiếu sót vận động sau cơn,
song chỉ tồn tại trong vài phút; không có suy giảm trí tuệ.
-
Động kinh toàn bộ: Là cơn động kinh điển hình với các tính
chất: đột quỵ (ngay lập tức, đột ngột, không chuẩn bị...), định hình
(co giật theo hình thái vận động), tái phát, rối loạn ý thức, thời
gian cơn... Cần chú ý tới sang chấn khi mới sinh ra, viêm nhiễm,
áp-xe não, bệnh não trẻ em.
Chẩn đoán động kinh ở trẻ em phải
dựa vào việc thăm khám, kiểm chứng hoặc đánh giá cơn và đo điện não
đồ. Cần phải có ý kiến đánh giá của bác sĩ chuyên khoa thần kinh -
tâm thần. Tất cả các trường hợp chẩn đoán là động kinh đều phải được
điều trị kịp thời...
Việc phòng bệnh động kinh ở trẻ em cần được
chú ý ngay từ khi bà mẹ mang thai, thực hiện việc khám thai định kỳ
và tiêm chủng cho trẻ qua các lứa tuổi.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)