Bệnh bạch hầu gây nguy hiểm cho trẻ nhỏ
Bạch hầu là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, lây theo đường hô hấp, gây tổn thương chủ yếu ở vòm hầu, họng, thanh quản, mũi, đôi khi ở da và các vùng niêm mạc khác... Đặc điểm nổi bật của bệnh là có những màng giả xuất hiện ở chỗ nhiễm khuẩn.
Ngoại độc tố bạch hầu gây hủy hoại mô tại chỗ, hoặc tác động xa lên
cơ tim, thần kinh ngoại biên và thận.
Vi khuẩn gây bệnh lây
truyền qua việc tiếp xúc với chất tiết từ đường hô hấp, hoặc với
những đồ vật dính chất bài tiết từ chỗ tổn thương của người bị nhiễm
khuẩn khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn (ít khi kéo dài hơn 4 tuần, hiếm
khi vi khuẩn mạn tính kéo dài trên 6 tháng).
Nếu người mẹ đã có miễn dịch thì đứa con mới sinh ra của họ có được
miễn dịch tương đối do mẹ truyền cho. Đây là miễn dịch thụ động và
thường sẽ mất đi trước 6 tháng. Trẻ em chưa có miễn dịch, trẻ dưới
một tuổi là đối tượng dễ mắc bệnh bạch hầu.
Miễn dịch sau khi
khỏi bệnh không phải lúc nào cũng bền vững (tái phát khoảng 2-5%).
Miễn dịch sau khi tiêm giải độc tố cũng giảm dần, do vậy người lớn
nếu không tiêm chủng nhắc lại vẫn có thể mắc bệnh.
Bệnh bạch
hầu có các thể sau:
Bạch hầu họng: Bệnh nhân sốt nhẹ, mệt mỏi và đau
họng. Trẻ quấy khóc, da xanh, kém ăn, bỏ bú, buồn nôn, ói mửa, nuốt
đau. Điển hình nhất là giả màng màu xám trắng, thường nằm trên bề
mặt amiđan, sau đó lan ra xung quanh tới lưỡi gà, vòm họng, hầu,
mũi, thanh quản. Giả màng dính chặt vào các mô bên dưới, khi ta cố
bóc tách sẽ gây chảy máu; khi bỏ vào nước không tan. Hai bên cổ trẻ
phù nề làm cổ bạnh ra, hạch quanh cổ sưng nhẹ và đau, hơi thở có mùi
hôi, viêm hạch và sưng cổ. Chỉ cần khám phát hiện được giả màng là
phải điều trị bạch hầu ngay.
Bạch hầu thanh quản: Thường thứ phát sau bệnh hầu
họng, bệnh nhân sốt nhẹ, khàn tiếng (100%), ho khan, nói giọng khàn,
nặng dần tới mức mất tiếng. Khó thở tăng dần, thở rít, lõm ngực, khi
giả màng lan xuống khí quản kèm phù nề sẽ gây tắc nghẽn đường thở,
trẻ vật vã, đổ mồ hôi, tím tái. Nếu không mở khí quản kịp thời, trẻ
sẽ tử vong vì ngạt thở.
Bạch hầu ác tính: Là thể bệnh trầm trọng nhất, biểu
hiện ồ ạt hơn các bệnh khác. Bệnh nhân nhanh chóng bị nhiễm độc nặng
với biểu hiện: sốt cao, mạch nhanh, huyết áp tụt, tím tái. Thường
các giả màng lan nhanh từ amidan qua vòm hầu lên vùng sau mũi, đến
tận hai lỗ mũi. Các hạch quanh cổ sưng to, phù nề, tạo ra vẻ "cổ
bạnh" điển hình. Bệnh nhân bị chảy máu miệng, mũi, da. Biến chứng
trên xảy ra sớm chỉ sau vài ngày. Hơn một nửa bệnh nhân bị bệnh bạch
hầu ác tính tử vong mặc dù được điều trị.
Ngoài những thể
thường gặp trên, bệnh bạch hầu còn xuất hiện ở các cơ quan khác như
mũi, da, lỗ tai, kết mạc, âm đạo; thường biểu hiện nhẹ, ít xảy ra
tình trạng nhiễm độc.
Bạch hầu là một bệnh nguy hiểm nên bệnh
nhân có thể tử vong do các biến chứng. Hai biến chứng nổi bật của
bạch hầu là viêm cơ tim và viêm dây thần kinh; ít gặp hơn là hoại tử
ống thận cấp gây suy thận, viêm phổi, viêm nội tâm mạc...
Về
nguyên tắc, bệnh bạch hầu được điều trị càng sớm càng tốt, vì nếu
phát hiện và điều trị muộn thì nguy cơ tử vong sẽ cao. Điều trị phải
toàn diện, trung hòa độc tố bạch hầu phối hợp với kháng sinh diệt
khuẩn, phát hiện ngăn ngừa các biến chứng, chống tái phát, chống bội
nhiễm và chế độ dinh dưỡng đầy đủ.
Bệnh bạch hầu có thể dự
phòng hiệu quả bởi vacxin DPT. Hiện nay, trong chương trình tiêm
chủng mở rộng, vacxin DPT phòng bệnh bạch hầu, ho gà, uốn ván được
tiêm miễn phí cho tất cả trẻ em dưới 1 tuổi theo lịch sau: trẻ 2
tháng tuổi tiêm mũi 1, ba tháng tuổi tiêm mũi 2 và bốn tháng tuổi
tiêm mũi 3.
BS Nguyễn Thanh Tú, Sức Khỏe & Đời Sống