Trị chứng đái dầm
DS. NGUYỄN HỮU ĐỨC
Theo thống kê của các tác giả Mỹ, có khoảng 5 đến 7 triệu trẻ con và
thanh thiếu niên Mỹ mắc chứng đái dầm. Chứng này đã được đề cập trong tài
liệu cổ từ năm 1550 trước công nguyên. Không những trẻ bị xấu hổ mà nhiều
bậc phụ huynh không rõ, cứ cho con em mình hư đốn đưa đến tình trạng có đến
25-36% cha mẹ đã trừng phạt, đánh đập con chỉ vì hằng đêm chúng tè ra quần
trong khi đang ngủ.
Đái dầm được định nghĩa là sự tiểu tiện không chủ tâm của trẻ ở tuổi đáng
lẽ ra có thể kiểm soát được sự tiểu tiện này (tuổi kiểm soát là 5 ở trẻ gái
và 6 ở trẻ trai). Nếu đái dầm vào ban ngày thì được gọi là đái dầm ban
ngày
(diurnal enuresis); còn nếu vào đêm khi ngủ gọi là đái dầm ban đêm
(nocturnal enuresis). Có trẻ đái dầm cả ngày lẫn đêm gọi là đái dầm hỗn hợp
(mixed enuresis). Người ta ghi nhận trẻ trai thường đái dầm ban đêm hơn trẻ
gái, còn trẻ gái thì ngược lại. Nếu trẻ có khoảng thời gian không đái dầm ít
nhất từ 3 đến 6 tháng rồi bị đái dầm được gọi là đái dầm thứ phát
(secondary enuresis), còn trẻ bị đái dầm không có khoảng thời gian nào kéo dài
gọi là đái dầm tiên phát (primary enuresis). Mặc dù 97% các trường
hợp đái dầm ban đêm không liên quan đến bệnh lý thực thể nhưng đối với các
nhà điều trị khi thăm khám trẻ bị đái dầm phải khám thật kỹ để loại trừ các
nguyên nhân bệnh lý gây ra đái dầm (thường là đái dầm ban đêm thứ phát). Các
nguyên nhân bệnh lý có thể kể: đái tháo đường, đái tháo nhạt, nhiễm trùng
đường tiểu, niệu đạo lạc chỗ (ectopic ureter, đối với trẻ gái), viêm âm đạo,
rối loạn hoạt động bàng quang do thần kinh (neurogenic bladder), thậm chí do
bị táo bón. Nếu do các nguyên nhân bệnh lý đương nhiên phải chữa trị các
bệnh lý đó. Bài viết này chỉ xin đề cập đến việc trị chứng đái dầm ban đêm
tiên phát ở trẻ.
Nguyên nhân dẫn đến chứng đái dầm ban đêm thường phức tạp. Trẻ bị chứng
này hiếm khi cần đến việc chữa trị về mặt tâm thần, thần kinh hoặc về mặt
giải phẫu học, trái lại có thể khỏe mạnh. Nguyên nhân có thể do yếu tố động
học về đường niệu như hoạt động bàng quang chậm trưởng thành, thường xuyên
có sự co thắt không ức chế được. Hoặc có thể do sự chậm phát triển của hệ
thần kinh kiểm soát sự tiểu tiện. Hoặc có thể do yếu tố di truyền (người ta
ghi nhận nếu cha mẹ trước đây mắc chứng đái dầm thì 77% con của họ cũng mắc
chứng này). Không có bằng chứng nào cho rằng đa số các trường hợp đái dầm
ban đêm tiên phát là do chứng loạn thần kinh tâm lý ( psychoneurosis ) tỷ lệ
bị rối lọan tâm lý ở trẻ đái dầm và không đái dầm được ghi nhận là ngang
nhau. Đa số không do rối loạn tâm lý nên phương thức trị liệu bằng tâm lý
(psychotherapy) nhiều khi không có hiệu quả. Tuy nhiên, nên lưu ý khi bị rối
loạn về mặt tình cảm nặng nề có thể dẫn đến đái dầm nhưng là đái dầm thứ
phát hơn là đái dầm tiên phát. Năm 1950, Strom-Olson tiến hành một cuộc
nghiên cứu chứng minh rằng đái dầm ban đêm có liên quan đến rối loạn giấc
ngủ, khi ngủ quá sâu sẽ bị đái dầm. Nhưng nghiên cứu của Kales và cộng sự
vào năm 1977 và sau đó, nghiên cứu của Mickkelson và cộng sự vào năm 1980
phản bác kết quả nghiên cứu của Strom-Olson cho rằng đái dầm chẳng liên quan
gì đến giấc ngủ sâu hoặc giấc ngủ chập chờn.
Những nghiên cứu gần đây nhất cho thấy ở trẻ đái dầm, chức năng bàng
quang và giấc ngủ bình thường nhưng có thể do hoạt động bài tiết nội tiết
tố chống bài niệu (antidiuretic hormone, ADH) có sự thay đổi. Một số trẻ
đái dầm được xét nghiệm cho thấy lượng ADH được bài tiết không tăng vào ban
đêm như những trẻ không đái dầm. Chính lượng ADH được cơ thể bài tiết không
đủ khi trẻ ngủ để chống lại sự bài tiết nước tiểu nên trẻ sinh ra đái dầm.
Về điều trị chứng đái dầm, có hai phương thức: phương thuốc không dùng
thuốc và phương thức dùng thuốc. Như trên đã trình bày, đa số các
trường hợp đái dầm không do có bệnh lý thực thể hoặc không do có rối loạn
tâm lý, cho nên không cần phải điều trị gì cả. Nhiều bậc cha mẹ sẵn sàng chờ
đợi sự tự khỏi sẽ đến đối với trẻ. Một số tác giả Mỹ đã làm thống kê, hằng
năm có khoảng 15% trẻ, thanh thiếu niên Mỹ đái dầm tuổi từ 5 đến 19 tự khỏi
hết chứng đái dầm mà không cần chữa trị.
Về phương thức không dùng thuốc trị chứng đái dầm ban đêm, có 3
phương pháp: điều chỉnh thái độ, tập giữ nước tiểu trong bàng quang, liệu
pháp khuyến khích.
1. Phương pháp điều chỉnh thái độ (behavior modification)
Đây có thể xem là liệu pháp dùng phản xạ có điều kiện. Sẽ dùng một dụng
cụ là đồng hồ báo thức đặc biệt, dụng cụ sẽ reo chuông inh ỏi khi trẻ đái
dầm, trẻ bắt buộc phải thức dậy để tắt tiếng chuông reo báo thức đó. Bất
tiện của phương pháp này là thời gian thực hiện phương pháp phải kéo dài và
gây ồn ào vào đêm khuya. Trong mấy tuần lễ đầu, trẻ thức giấc sau khi đái
dầm xong. Từ từ, phản xạ có điều kiện được thành lập, trẻ thức giấc ngay khi
bàng quang bắt đầu co thắt và sự tiểu tiện chưa xảy ra. Ở Mỹ, có cuộc nghiên
cứu cho thấy có đến 70% trẻ dùng phương pháp này đạt được kết quả (thời gian
thực hiện phải 1-2 tháng).
2. Phương pháp tập giữ nước tiểu trong bàng quang (bladder retention, hay
gọi tắt là tập nín tiểu)
Đây là cách tập cho bàng quang của trẻ dãn ra và phần nào trị được chứng
đái dầm ban đêm. Sẽ khuyến khích trẻ tập nín không đi tiểu dù mắc tiểu vào
ban ngày, nín ở mức có thể chịu đựng được. Và khi đang tiểu, tập ngưng không
tiểu nữa để rồi sau đó tiểu lại. Tập nín tiểu là để gia tăng giữ nước tiểu
của bàng quang, còn tập ngưng tiểu giữa chừng là để gia tăng sức co đóng của
cơ vòng chống lại sự có thắt của bàng quang. Trong một nghiên cứu áp dụng
phương pháp này trên 83 trẻ trong vòng 6 tháng, các nhà nghiên cứu báo cáo
có đến 66% trẻ chứng tỏ tình trạng có cải thiện, trong đó 30% có trẻ được
chữa khỏi.
3. Phương pháp dùng liệu pháp khuyến khích (motivational therapy)
Trong phương pháp này thường xuyên có sự tham vấn của nhà điều trị. Trẻ
sẽ không bị rầy mắng hay bị trừng phạt về tội đái dầm, trái lại được hỗ trợ
về mặt tình cảm của cha mẹ và nhà điều trị. Chúng được khuyên không nên uống
nước 2 đến 3 giờ trước khi ngủ và phải đi tiểu trước khi ngủ. Chúng sẽ chủ
động ghi lại thành tích những đêm không đái dầm như cắm cờ hay ghi ngôi sao
vào tấm lịch làm sẵn. Sẽ đặt mục tiêu phấn đấu như trong 1 tuần lúc đầu có
2, 3 đêm không đái dầm, sau đó mức phấn đấu sẽ được nâng dần lên và có phần
thưởng thích đáng. Tỷ lệ chữa khỏi theo phương pháp này chưa rõ, chỉ ước
chừng khoảng 25%. Có khoảng 70% trẻ tham gia vào phương pháp này có dấu hiệu
cải thiện, tức số lần đái dầm có giảm đi.
Trên đây là phần giới thiệu 3 phương pháp không dùng thuốc để chữa chứng
đái dầm ban đêm tiên phát ở trẻ. Các phương pháp không dùng thuốc không phải
lúc nào cũng đạt hiệu quả và đòi hỏi một số điều kiện. Trước hết phải có sự
cộng tác kiên trì giữã nhà điều trị, các bậc cha mẹ và trẻ đái dầm (trẻ phải
đến tuổi có sự nhận biết và hiểu những yêu cầu đặt ra đối với chúng). Thông
thường cần phải phối hợp cả 3 phương pháp để mong tỷ lệ thành công cao hơn.
Như trong một báo cáo đăng trong tạp chí Journal of Paediatriatrics,
obstetrics and Gyneacology xuất bản ở Hồ?g Kông (số tháng 9-10, năm 1994),
nhà tâm lý học Tân Tây Lan Glen Stenhouse đã kể lại quá trình rất nhiêu khê
áp dụng phối hợp ba phương pháp trên chữa khỏi chứng đái dầm ở một số bé gái
mới 6 tuổi rưỡi.
Kỳ tới: Thuốc dùng trị chứng đái dầm.