CHĂM SÓC SỨC KHỎE VÀ THEO DÕI CÁC THỜI KỲ PHÁT
TRIỂN CỦA TRẺ EM
BS. TRẨN THỊ NGA
Sức khỏe của trẻ em là
sự giàu có của đất nước, việc chăm sóc sức khỏe của trẻ em hiện nay là chuẩn
bị cho sự phồn vinh trong tương lai.
Vì vậy muốn cho trẻ em
có một sức khỏe tốt từ tuổi ấu thơ đến trưởng thành, thì chúng ta phải biết
các đặc điểm phát triển từng giai đoạn của trẻ để có kế hoạch chăm sóc.
Hiện nay, các nhà khoa
học đã dựa vào những đặc điểm sinh học của trẻ em và đã chia ra 6 giai đoạn
(thời kỳ) phát triển của trẻ, mỗi một thời kỳ, chúng tôi nêu ra một số đặc
điểm cần lưu chú ý để tiện việc theo dõi và chăm sóc trẻ.
1. Thời kỳ phát triển
bào thai, hay
gọi là thời kỳ trong bụng mẹ. Thời kỳ này giới hạn từ lúc thụ thai đến lúc
đứa trẻ sinh ra. Trung bình từ 270-280 ngày (9 tháng đến 9 tháng 10 ngày).
Đặc điểm của thời kỳ này rất quan trọng, vì nó là thời kỳ hình thành và phát
triển thai nhi.
3 tháng đầu là giai đoạn
hình thành thai nhi.
6 tháng sau là giai đoạn
phát triển thai nhi rất mạnh.
Nó phụ thuộc hoàn toàn
vào người mẹ. Ví dụ như: tuổi có thai, số lần sinh, khoảng cách giữa các lần
sinh. Tình trạng dinh dưỡng, điều kiện lao động và tinh thần, bệnh tật của
người mẹ.
Nếu người mẹ trong 3
tháng đầu bị bệnh, đặc biệt bị các bệnh do siêu vi trùng như: cúm, rubiol
v.v... có thể gây ra dị tật cho thai nhi như: sứt môi, hở hàm ếch, tim bẩm
sinh v.v... Nếu xảy ra vào 6 tháng sau có thể gây ra sẩy thai, sinh non,
thai chết lưu hoặc suy dinh dưỡng bào thai v.v...
Vì vậy, việc chăm sóc trẻ
em trong giai đoạn này là chăm sóc người mẹ, nhất là người mẹ có thai. Chúng
ta cần phải tuyên truyền giáo dục cho các bà mẹ biết cách tự chăm sóc và
phòng bệnh khi có thai phải có chế độ ăn uống đầy đủ để đảm bảo trong thời
gian có thai tăng từ 10-12kg và có một chế độ lao động hợp lý, đồng thời
phải đi khám thai, ít nhất là 3 lần, tiêm phòng uống ván đủ 2 lần. Và chuẩn
bị cho cuộc sinh an toàn mẹ tròn con vuông tránh những tai biến sản khoa xảy
ra đáng tiếc.
2. Thời kỳ sơ sinh: là thời kỳ kể từ khi đứa trẻ cất
tiếng khóc chào đời đến khi được 30 ngày.
Thời kỳ này là đứa trẻ
phải thích nghi với môi trường mới ngoài bụng mẹ: về nhiệt độ, về hô hấp,
tim mạch và đứa trẻ phải độc lập với cuộc sống trẻ nhỏ của mình chứ không
hoàn toàn phụ thuộc vào mẹ như trong bào thai.
Tuy nhiên, cơ thể của trẻ
lúc này rất non yếu, đòi hỏi sự chăm sóc đặc biệt. Vì vậy, phải cho trẻ bú
ngay sau sinh để tận dụng sữa non của người mẹ, đồng thời cho trẻ cùng với
mẹ ở nơi khí hậu ấm, thoáng, vệ sinh có ánh nắng chiếu vào buổi sáng. Và đảm
bảo yên tĩnh, đồng thời phải phòng các bệnh lúc này dễ mắc nhất là bệnh
nhiễm khuẩn hô hấp, rốn, da, tiêu hóa và nhiễm trùng máu. Vì vậy, tránh trẻ
tiếp xúc nhiều với người lạ. Quần áo, tã lót phải mềm, sạch, luôn luôn giữ
khô cho trẻ. Cho trẻ bú theo yêu cầu, đứa trẻ khỏe thì ngủ nhiều do thần
kinh các trẻ bị ức chế nên đôi lúc phải đánh thức trẻ cho bú và có vàng da
xuất hiện sau vài ngày sinh, vàng da nhẹ sẽ hết sau 1 tuần. Nhưng nếu thấy
vàng da nhiều ngày sau sinh, vàng da ngày càng tăng thì phải cho trẻ đi khám
cấp cứu ngay ở những nơi chuyên khoa nhi, vì đó là vàng da bệnh lý do vỡ
hồng cầu làm tăng bilinubin tự do, nếu không phát hiện điều trị kịp thời có
thể nguy đến tính mạng của trẻ và nếu sống sẽ để lại những di chứng về não
sau này. Chúng tôi đã gặp một số trường hợp do để trẻ trong buồng tối, nên
không phát hiện được vàng da, đến khi phát hiện thì đã quá muộn, không có
khả năng điều trị. Vì việc chăm sóc thời kỳ sơ sinh ngoài chăm sóc các bệnh
nhiễm khuẩn cần chú ý chăm sóc da của trẻ.
3. Thời kỳ bú mẹ hay
dưới một tuổi:
là thời kỳ tiếp theo thời kỳ sơ sinh, đặc điểm của thời kỳ này đứa trẻ lớn
rất nhanh.
Thường cân nặng lúc sinh
trung bình từ 2.900-3.000 (nếu dưới 2.500 là sinh non hoặc suy dinh dưỡng
trong bào thai). Lúc trẻ được 6 tháng tuổi cân nặng tăng gấp đôi = 6kg và
lúc một tuổi cân nặng gấp ba = 9-9,5kg. Trung bình mỗi tháng tăng từ 550 đến
600g.
Về chiều cao, lúc sinh có
chiều cao trung bình từ 49-50cm, 6 tháng đầu tăng từ 16-17cm, 6 tháng sau
tăng từ 7-8cm.
Trong bình một năm đầu
tăng từ 23-25cm. Như vậy, chiều cao tăng từ lúc 1 tuổi gần 50%, lúc tròn 1
tuổi đứa trẻ cao 75cm.
- Về hoạt động thần kinh
cao cấp hình thành, trẻ phát triển tâm thần vận động nhanh, trẻ biết hóng
chuyện, nhận biết người thân, biết nói, biểu hiện tình cảm. Và hiển nhiên,
đứa trẻ biết lẫy, bò và chập chững biết đi (3 tháng biết lẫy, 7 thường biết
bò, 9-10 tháng biết đi).
- Hệ thống miễn nhiễm
thời kỳ này còn non yếu. Miễn dịch thụ động từ mẹ truyền sang trẻ, trên 6
tháng giảm dần, trẻ dễ mắc các bệnh lây như: ho gà, bạch hầu, uốn ván, sởi
v.v...
Vì vậy, chăm sóc thời kỳ
này là chăm sóc dinh dưỡng và tiêm chủng uống vitamin A phòng khô mắt, nhu
cầu dinh dưỡng cũng cao từ 110-120 kcalo/kg/ngày nhưng bộ phận tiêu hóa còn
non yếu, do đó chế độ dinh dưỡng tốt nhất là cho bú sữa mẹ, bú theo nhu cầu.
Bú sữa mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu và bắt đầu cho ăn bổ sung (vừa ăn vừa
bú sữa mẹ) từ tháng thứ 5 đề phòng suy dinh dưỡng. Thức ăn bổ sung cần đa
dạng và chú ý tô màu cho bát bột. Không nên cho trẻ ăn bột nấu đường, muối,
hoặc bột mì chính. Chúng ta cũng cần chú ý cho đồ ăn của người mẹ tăng hơn
bình thường để đảm bảo sữa cho con.
Mặt khác phải cho trẻ
tiêm chủng cho đúng lịch đề phòng 6 bệnh lây và thường xuyên cho trẻ tắm
nắng vào buổi sáng. Mỗi lần 5-10'. Xoa bóp, tập thể dục cho trẻ để đề phòng
còi xương. Và một điều chú ý là trẻ rất hiếu động nên các đồ vật trong gia
đình cần chú ý như: bếp điện, bếp ga, phích nước, thuốc cũng để xa tầm tay
với của trẻ, để đề phòng những tai nạn xảy ra đáng tiếc như bỏng, điện giật
v.v...
4. Thời kỳ răng sữa
Bắt đầu từ 1-7 tuổi chia
ra 1-3 tuổi, tuổi nhà trẻ 4-6 tuổi, tuổi mẫu giáo.
Thời kỳ này chậm lớn hơn
thời kỳ bú mẹ, mỗi năm trung bình từ 1,5-2kg. Có thể tính công thức gần đúng
như sau, theo các nhà nhi khoa
X = 9kg + 2(N-1)
X số cần phải có, N số
năm. Ví dụ đứa trẻ 3 tuổi ta tính như sau:
X = 9kg + 2(3-1) = 13kg
Vậy cân nặng của trẻ 3
tuổi là 13kg.
Và chiều cao mỗi năm tăng
khoảng 5cm. Công thức tính chiều cao như sau:
X = 75 + 5(N-1)
X số chiều cao phải có, N
là số năm. Ví dụ đứa trẻ 3 tuổi:
X = 75 + 5(3-1) = 85cm
Đứa trẻ đúng 3 tuổi, phát
triển bình thường là cân nặng 13kg và chiều cao là 85cm do đó hiện nay chúng
ta đang sử dụng biểu đồ tăng trưởng để theo dõi sức khỏe của trẻ.
Ở giai đoạn này chức năng
và các bộ phận dần dần hoàn chỉnh, trẻ có thể làm động tác khéo léo, tự phục
vụ mình, biết chơi các đồ chơi, tập vẽ, tập hát, có khả năng tiếp thu giáo
dục và bắt đầu đi học lúc 6 tuổi. Do có điều kiện tiếp xúc nhiều, nên hay
mắc các bệnh lây như: cúm, nhiễm khuẩn hô hấp, bệnh TMH, dị ứng, giun v.v...
Chăm sóc thời kỳ này là chăm sóc dinh dưỡng, tiêm chủng nhắc lại và chăm sóc
tinh thần, vận động của trẻ. Chăm sóc răng vì răng sữa dễ bị sâu. Qua theo
dõi các cháu ở tuổi mẫu giáo nên chăm sóc răng không tốt tỷ lệ sâu cao có
nơi 60-70% trẻ bị sâu răng.
5. Thời kỳ thiếu niên
hay thời kỳ đi học từ 7-15 tuổi
Từ 7-12 tuổi tính là tuổi
học sinh nhỏ.
Từ 12-15 tuổi tính là
thời kỳ trên dậy thì (hay gọi là thời kỳ trước tuổi dậy vị thành niên). ở
thời kỳ này, các chức năng và sự cấu tạo của các bộ phận trong cơ thể dần
hoàn chỉnh. Trẻ có khả năng tiếp thu giáo dục học đường tốt. Phát triển mạnh
mẽ về trí tuệ, cá tính phát triển, cũng như giới tính phát triển. Hệ thống
cơ phát triển nhanh, cân nặng tăng, cũng như giới tính phát triển rõ rệt.
Thời kỳ này con gái đã có ý thức hơn, biết e thẹn, tuyến vú bắt đầu phát
triển nhiều cháu đã có kinh nguyệt ở tuổi 11-13. Răng vĩnh viễn bắt đầu thay
răng sữa. Ở giai đoạn này trẻ tiếp xúc nhiều nên hay mắc các bệnh nhiễm
khuẩn hô hấp, bệnh giun sán, bệnh về răng miệng, bệnh về tai mũi họng. Đặc
biệt chú ý bệnh thấp tim. Ngoài ra còn mắc các bệnh do sai lầm về tư thế
ngồi khi đi học như lưng gù, vẹo, lệch cột sống, cận thị... vì vậy chăm sóc
thời kỳ này là chăm sóc y tế học đường, chăm sóc trí tuệ và phòng các bệnh
phổ biến như trên. Đối với trẻ gái, chăm sóc về vệ sinh sinh dục.
6. Thời kỳ dậy thì hay
còn gọi tuổi vị thành niên
Thời kỳ dậy thì phụ thuộc
vào môi trường sống, sinh hoạt dinh dưỡng. Dậy thì ở thành thị sớm hơn ở
nông thôn, tuổi dậy thì ở con gáu từ 13-18 tuổi, đối với con trai từ 15-20
tuổi. Đặc điểm của thời kỳ này là cơ thể lớn rất nhanh, cân nặng từ
3-4kg/trong một năm. Thay đổi về giọng nói (thường gọi là vỡ tiếng) con trai
nói ồ ồ. Biến đổi nhiều về mặt tâm lý, hoạt động về mặt nội tiết, tuyến sinh
dục chiếm ưu thế, chức năng sinh dục trưởng thành. Vì vậy việc chăm sóc
trong thời kỳ này là chăm sóc giới tính, phải giáo dục về giới tính. Hiện
nay chúng ta đang có chương trình giáo dục giới tính cho tuổi vị thành niên
để có một tình yêu lành mạnh, tránh những trường hợp có thai ngoài ý muốn.
Hiện nay có nhiều cháu không hiểu về tình dục nên đã có quan hệ tình dục
không đúng và dẫn đến tình trạng nạo phá thai ở tuổi vị thành niên chiếm một
tỷ lệ đáng kể, hoặc để bị nhiễm HIV hoặc bệnh AIDS là nguy cơ đến tương lai
và cuộc sống dẫn đến nguy hiểm tính mạng.
Mặt khác cũng phải chăm
sóc về tâm lý, về các bệnh tim mạch đặc biệt là bệnh thấp tim. Vệ sinh nội
tiết sinh dục và giáo dục trí tuệ.
Tóm lại sự phát triển của
trẻ em là một quá trình đi lên, liên tục, danh giới các thời kỳ không hoàn
toàn rõ ràng. Chúng ta cần có kiến thức và quan tâm rõ một số đặc điểm chủ
yếu của các thời kỳ có những biện pháp chăm sóc thích hợp để bảo vệ cho sức
khỏe trẻ em.