BIẾNG ĂN Ở TRẺ EM LỨA TUỔI ĂN DẶM
BS. ĐÀO THỊ YẾN PHI
TT Dinh dưỡng TPHCM
Dinh dưỡng trẻ em là một
vấn đề quan trọng không chỉ ảnh hưởng đến cá nhân hay gia đình mà còn tác
động đến cả xã hội và sự phát triển vận động, trí tuệ, tầm vóc. của cả một
thế hệ. Trong thời gian vừa qua, cùng với sự đi lên về kinh tế xã hội, nhận
thức và hiểu biết của người dân về dinh dưỡng và dinh dưỡng trẻ em ngày càng
được nâng cao, mỗi người phụ nữ đã biết cách chăm sóc gia đình mình một cách
hợp lý, với một chế độ dinh dưỡng phù hợp và có lợi nhất. Tuy nhiên, trên
thực tế có không ít những đứa trẻ được sinh ra trong một gia đình khá giả,
được sự quan tâm chăm sóc đúng cách của mẹ và có khi là của cả gia đình
nhưng dinh dưỡng vẫn không thể đạt đến mức tối ưu. Đó là do đứa trẻ không
chịu ăn, hay nói một cách văn vẻ hơn là "biếng ăn".
Khái niệm biếng ăn có thể
được hiểu như sau: Đó là khi trẻ không chịu ăn đủ số lượng thức ăn cần thiết
cho nhu cầu sống, hoạt động và tăng trưởng của trẻ.
Theo khái niệm trên thì
hai trường hợp sau đây không thể gọi là biếng ăn: mẹ ép trẻ ăn phần ăn ngoài
nhu cầu cần thiết hàng ngày, hoặc không cung cấp đủ lượng thức ăn cho trẻ.
A. Một số nguyên
nhân chính làm trẻ biếng ăn
Theo một số tài liệu, lứa
tuổi biếng ăn nhiều nhất tập trung vào khoảng 7 tháng đến 1 tuổi. Tuy nhiên,
trên thực tế biếng ăn có thể gặp ở mọi đối tượng trẻ em ở lứa tuổi khác
nhau. Sự phân chia các nguyên nhân biếng ăn sau đây chỉ có tính tương đối,
vì trên thực tế biếng ăn ở trẻ thường do nhiều nguyên nhân kết hợp và thường
việc xác định nguyên nhân chủ yếu rất khó khăn. Có thể tạm chia nguyên nhân
biếng ăn ra làm 2 nhóm chính:
I. Nguyên nhân thực
thể
1. Bệnh lý ở đường
tiêu hóa
w Bệnh lý răng miệng: Đau răng, sưng
nướu răng, đẹn miệng, lở miệng, viêm gai lưỡi.
w Viêm họng, viêm A mi đan
w Bệnh lý ở thực quản, dạ dày, ruột:
Hẹp thực quản, viêm dạ dày, viêm ruột, tiêu chảy cấp hay mãn.
2. Bệnh lý các cơ quan
hoặc các thói quen ăn uống làm ảnh hưởng đến sự tiêu hoá
w Giảm các men tiêu hóa
- Giảm dịch vị dạ dày:
Bệnh lý dạ dày, uống sữa trước bữa ăn, uống nhiều nước trước bữa ăn, uống
các loại nước ngọt có nhiều gaz, vừa ăn vừa uống.
- Giảm tiết mật: Bệnh lý
gan mật (viêm gan, tắc mật), các rối loạn chuyển hóa mỡ.
- Giảm tiết dịch tụy: Suy
tụy ngoại tiết, bệnh lý tụy có tắc nghẽn.
- Giảm tiết dịch ruột:
Bệnh lý ruột ( lao ruột, đa polyp, viêm ruột mãn.).
- Giảm các vi sinh vật có
tác dụng hỗ trợ tiêu hóa: Dùng kháng sinh kéo dài.
w Ắn không đúng cách: Ắn uống các
chất ngọt làm tăng đường huyết, chế độ ăn quá nhiều đạm, mỡ. ăn thiếu các
loại vitamin và muối khoáng cần thiết cho việc tạo các men tiêu hóa.
3. Bệnh lý toàn thân
w Suy dinh dưỡng: Vừa là nguyên nhân
lại vừa là hậu quả của biếng ăn. Hai vế này kết hợp với nhau trong một vòng
lẩn quẩn rất khó cho người điều trị.
Suy nhược
Giảm men tiêu hóa
Suy dinh dưỡng Thiếu máu
+ Giảm hoạt động
Thiếu vitamin
cơ học của hệ tiêu hóa
Giảm năng lượng thu nhập
Biếng ăn
w Bệnh lý nhiễm trùng, nhiễm siêu vi:
Sởi, viêm hô hấp, sốt rét, lao.
w Bệnh lý nặng gây suy nhược toàn
thân: AIDS, bệnh lý ác tính.
w Bệnh lý thần kinh.
II. Nguyên nhân tâm lý
: Chiếm đa số
các trường hợp biếng ăn ở trẻ em.
1. Thức ăn không hợp
khẩu vị: Mùi vị
của thức ăn đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo cảm giác ngon
miệng cho trẻ. Ngoài ra, độ đặc của thức ăn, loại và thành phần thức ăn nếu
không hợp lý cũng có thể gây tình trạng biếng ăn cho trẻ. Các thức ăn thường
làm cho trẻ không thích là:
w Các thức ăn được trộn lẫn, xay
nhuyễn tạo thành một hỗn hợp đồng nhất không có mùi vị đặc trưng nên làm cho
bé ngán.
w Các thức ăn lỏng phải ăn kéo dài
trên tuổi quy định, hoặc ăn thức ăn đặc quá sớm.
w Món "đồ bổ" bao gồm nhiều
loại thức ăn nấu nhừ và lặp đi lặp lại nhiều ngày.
w Thức ăn không hợp ý: Một số trẻ
trong những thời gian nhất định có ý thích đặc biệt với một loại thức ăn nào
đó. Các bà mẹ thường sợ trẻ ăn như vậy không đủ chất nên cấm không cho trẻ
ăn loại thức ăn ưa thích mà lại ép trẻ ăn một loại thức ăn khác, đôi khi tạo
nên một phản ứng phản kháng, trẻ sẽ giận lẫy bỏ ăn luôn.
2. Không khí bữa ăn: Tâm lý trẻ em thường rất thích vừa
ăn vừa chơi, vì vậy các bà mẹ có thể lợi dụng điều này để biến bữa ăn của
trẻ thành những cuộc vui nho nhỏ giúp bé cảm thấy thích thú với bữa ăn. Các
thái độ không đúng có thể làm bé sợ hãi hay không thích bữa ăn là:
w Căng thẳng, la mắng, đánh đập.
w Quá khuôn khổ, gò ép.
w Ép trẻ ăn bằng mọi cách kể cả đè
trẻ ra nhét thức ăn vào miệng.
w Thái độ nuông chiều quá mức tạo cho
trẻ thói quen vòi vĩnh.
3. Chế độ ăn không phù
hợp: Giờ giấc,
số lượng, thành phần.
4. Mất thói quen nhai: Ở trẻ ăn thức ăn xay mịn lâu ngày.
5. Ham chơi.
6. Biếng ăn tâm lý: Thường gặp ở người lớn.
B. Một số biện pháp khắc phục tình trạng biếng ăn ở trẻ
Cần cho bé đi khám để phát
hiện và điều trị các bệnh lý nếu có. Không nên tự ý mua thuốc để điều trị ở
nhà vì như đã nói ở trên, biếng ăn có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây
ra và chỉ có thể phát hiện nguyên nhân chính xác sau một quá trình thăm khám
cẩn thận, với đầy đủ xét nghiệm cận lâm sàng. Có như vậy, việc điều trị mới
có hiệu quả được.
II. Chế độ ăn uống hợp
lý - Phòng chống suy dinh dưỡng
1. Chế độ ăn phải phù
hợp với lứa tuổi:
Ở mỗi độ tuổi khác nhau, trẻ có những đặc điểm cơ thể phù hợp với những chế
độ ăn khác nhau (ví dụ răng, men tiêu hoá.) vì vậy việc cho bé ăn những thức
ăn không phù hợp có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ tiêu hoá và làm
bé biếng ăn.
w Trẻ dưới 4 tháng: sữa mẹ
w Trẻ 4 - 6 tháng: Tập ăn dặm từ bột
loãng đến bột sệt + sữa mẹ
w Trẻ 6 -9 tháng: ăn bột từ sệt đến
đặc đủ 4 nhóm + sữa mẹ
w Trẻ 9 -24 tháng: Cháo đăïc đủ 4
nhóm, bột đặc + Sữa mẹ
w Trẻ trên 24 tháng: cơm nát à cơm thường.
2. Cách chế biến thức
ăn phù hợp với độ tuổi: Thông thường các món nguyên liệu cần chọn mua loại tươi, mới, và nên ăn
bữa nào nấu bữa ấy. Các loại rau xanh nên nấu vừa chín tới không nên hầm đến
thay đổi màu sắc. Dầu ăn có thể cho vào lúc bột đã chín, còn nóng. Nêm muối
iốt để đảm bảo cung cấp đủ lượng iốt cần thiết cho sự phát triển của trẻ.
w Bột loãng, sệt: xay mịn, băm mịn các
loại nguyên liệu.
w Bột đặc: Băm nhỏ các loại nguyên
liệu
w Cháo đặc: Băm vừa các loại nguyên
liệu, tập cho bé nhai
w Cơm nát: xé nhỏ các món mặn, bao giờ
cũng có món canh rau kèm theo và nên cho ăn canh vào cuối bữa.
w Khi trẻ đã ăn được cơm thường nên
cho ăn càng gần với chế độ ăn của người lớn càng tốt.
3. Thành phần thức ăn
phù hợp:
Trong thực tế, không ít
những bà mẹ quan tâm đến con mình quá mức, cụ thể là ngày nào cũng hầm cho
trẻ một nồi "đồ bổ" với rất nhiều loại nguyên liệu cùng một lúc, với quá
nhiều chất đạm trong khi không đủ tinh bột hoặc chất xơ (rau) hay ngược lại
tất cả chỉ là lấy nước, bỏ xác nên trẻ không nhận được chất dinh dưỡng cần
thiết từ thức ăn. Điều này vừa là nguyên nhân thực thể vừa là nguyên nhân
tâm lý dẫn đến biếng ăn cho trẻ. Chế độ ăn không cân đối làm lệch cân bằng
các chất trong cơ thể, như là gia tăng qúa mức nồng độ acide amine trong
huyết tương trong khi thiếu các vitamine, hoặc năng lượng. hậu quả làm bé
biếng ăn dẫn đến SDD. Bên cạnh đó sự lập đi lập lại các món ăn một cách nhàm
chán sẽ làm bé ngán, nếu cộng thêm với sự ép ăn qúa sức, bé sẽ bỏ ăn vì các
nguyên nhân tâm lý.
Chế độ ăn tốt nhất là một
chế độ ăn đa dạng và đầy đủ các chất, ăn cả xác. Nên thay đổi món ăn cho bé
hàng ngày và nếu có thể đối với các bé lớn nên cho ăn giống như người lớn.
Việc cho bé tham gia vào bữa ăn cùng với người lớn cũng làm cho bé thích thú
hơn vì thấy mình "bình đẳng" với người lớn. Nếu bé thích một loại thức ăn
nào đó và đòi ăn thường xuyên hơn các loại thức ăn khác, vẫn có thể cho bé
ăn thường xuyên loại thức ăn đó, đương nhiên bên cạnh đó tìm cách bổ sung
thêm các nhóm thức ăn khác chứ không nên bỏ hẳn loại thức ăn ưa thích của
bé. Bổ sung thêm vào thức ăn của bé dầu ăn là một chú ý rất quan trọng trong
phòng ngừa SDD. Chỉ nên dứt sữa khi bé đã ăn được nhiều 4 - 5 chén mỗi ngày.
4. Thời gian và cách
cho ăn phù hợp:
Nên
cho bé ăn vào những thời gian nhất định trong ngày. Cần lưu ý là dạ dày trẻ
nhỏ trong khi nhu cầu năng lượng lại lớn ( một cách tương đối so với kg cân
nặng) nên trẻ không thể ăn 3 bữa/ngày như người lớn. Các bữa ăn trung bình
cách nhau 3 giờ, một bữa chính xen kẽ với một bữa phụ. Bữa chính nên trùng
với bữa ăn chính của gia đình, như vậy vừa thuận tiện cho mẹ vừa tạo niềm
vui cho bé. Các thức ăn của bữa phụ có thể đa dạng nhưng nên tránh các loại
calori rỗng như kẹo, đường, nước ngọt.
Trong lúc bé ăn, tránh sự gò ép thái quá. Mẹ có thể cho bé tự xúc ăn, tự
chọn thức ăn. Cố gắng biến bữa ăn của bé thành một cuộc vui làm hài lòng cả
bé và mẹ. Khi trẻ bệnh, nên khuyến khích trẻ ăn chứ không nên ép buộc.
Không cho trẻ ăn quà vặt, uống nước ngọt, sữa. trước bữa ăn. Cần lưu ý là
với trẻ nhỏ không nên dùng bình sữa để cho trẻ uống nước.
5. Dùng thuốc:
Việc dùng thuốc trong điều
trị biếng ăn thường không đem lại hiệu qủa tối ưu như trong suy nghĩ của
nhiều người. Các nhóm thuốc thường được dùng trong điều trị biếng ăn thường
là
*
Nhóm vitamine và khoáng chất: Đây là các thành phần quan trọng hoặc là chất
xúc tác cần thiết cho quá trình sản xuất và tác dụng của các loại men tiêu
hóa.
*
Nhóm men tiêu hoá
-
Men tiêu tinh bột: Menalaz
-
Men tụy: Pantyrase, Neopeptin
-
Men tiêu hoá sống: Lacteofort, Antibio, L-Bio, Biosubtyl .
-
Thuốc kích thích hoạt động gan mật: Arginine, Chophytyl.
*
Nhóm thuốc "kích thích ăn"
Thực chất đây là loại
thuốc kháng dị ứng và tác dụng ăn ngon chỉ là tác dụng phụ, bên cạnh đó có
thể có một số tác dụng không hay vì vậy không nên dùng trong điều trị biếng
ăn. Trong thực tế các bà mẹ thường truyền miệng nhau mua loại thuốc này tự
sử dụng. Đây là vấn đề cần lưu ý trong tư vấn các trường hợp trẻ biếng ăn.
C. Kết Luận
Biếng ăn là một vấn đề
quan trọng và đa dạng ảnh hưởng rất nhiều đến tình trạng dinh dưỡng trẻ em.
Việc xác định và loại bỏ các nguy cơ có thể dẫn đến biếng ăn là việc làm cần
thiết. Việc phòng ngừa có thể được thực hiện từ những nhận thức và hành động
đúng đắn về dinh dưỡng . Điều trị biếng ăn cần sự phối hợp của nhiều biện
pháp, cần sự quan tâm đến trẻ của nhiều người (bố mẹ, ông bà, cô giáo) và
cần sự kiên trì của người chăm sóc trẻ.