Trẻ sơ sinh nhẹ cân
Tác giả : BS. CAM NGỌC
PHƯỢNG (Bệnh viện Nhi Ðồng I)
I. Thế nào là trẻ sơ sinh nhẹ cân?
Trẻ nhẹ cân là trẻ có cân
nặng lúc sinh dưới 2.500g. Trẻ có cân nặng lúc sinh giữa 1.000g và
1.499g gọi là trẻ rất nhẹ cân, và trẻ có cân nặng lúc sinh dưới
1.000g là trẻ cực nhẹ cân. Những trẻ này có thể đủ tháng hoặc non
tháng; Bình thường hoặc có dị tật bẩm sinh; Nguyên nhân nhẹ cân có
thể do chậm phát triển trong tử cung hoặc không.
II. Các dạng trẻ nhẹ cân
Trẻ nhẹ cân được phân loại theo tuổi thai (trẻ nhẹ
cân đủ tháng và nhẹ cân non tháng), Theo sự cân đối (nhẹ cân cân đối
và nhẹ cân không cân đối) và theo suy dinh dưỡng (nhẹ cân có gầy mòn
và không gầy mòn). Trẻ nhẹ cân dưới 37 tuần tuổi thai gọi là trẻ nhẹ
cân non tháng. Trẻ nhẹ cân và không cân đối hoặc trẻ gầy mòn là
những trẻ chỉ có cân nặng thấp, còn chiều cao và vòng đầu bình
thường. Trẻ nhẹ cân cân đối là những trẻ giảm cả cân nặng, chiều cao
và vòng đầu. Trẻ sinh đủ tháng nhẹ cân có thể cân đối hoặc không cân
đối. Những trẻ non tháng nhẹ cân thường là nhẹ cân cân đối. Quan sát
trẻ nhẹ cân không cân đối sẽ thấy có sự khác biệt so với trẻ nhẹ cân
cân đối. Trẻ nhẹ cân không cân đối bề ngoài trông gầy mòn, giảm mô
dưới da, da nhăn, đầu to, móng dài, da khô tróc vảy. Trẻ nhẹ cân cân
đối thường có khe khớp sọ giãn, thóp trước rộng, chậm phát triển
hành xương, trẻ lùn và vòng đầu nhỏ.
III. Những nguyên nhân làm
trẻ nhẹ cân
Mặc dù có rất nhiều yếu tố về di truyền, về thai,
dinh dưỡng, môi trường, về nhau - tử cung có thể ảnh hưởng đến sự
phát triển của thai, nhưng trong một vài trường hợp, người ta không
rõ nguyên nhân gây nhẹ cân. Những nguyên nhân gây nhẹ cân thường gặp
là: 1.Khả năng phát triển thai thay đổi Bất thường về di truyền. Dị
tật bẩm sinh. Bất thường nhiễm sắc thể. Rối loạn chuyển hóa bẩm
sinh. Nhiễm trùng trong tử cung. Tiếp xúc với chất gây ung thư hoặc
thuốc. Rối loạn điều hòa nội tiết. 2. Cung cấp dinh dưỡng không đủ
Chức năng nhau không đủ. - Ða thai. - Sinh già tháng. - Bất thường
bánh nhau. - Viêm bánh nhau (do vi trùng, siêu vi trùng, ký sinh
trùng). Suy dòng máu qua bánh nhau hoặc giảm vận chuyển oxy. - Mẹ bị
sản giật. - Mẹ bị tiểu đường, cao huyết áp, bệnh thận. - Sống trên
vùng cao. - Mẹ hút thuốc lá. * Sự tăng trưởng thai trong 3 tháng
đầu, 3 tháng giữa thai kỳ chủ yếu bị ảnh hưởng bởi khả năng phát
triển liên quan đến di truyền của thai. Nhiễm trùng trong tử cung
hoặc tiếp xúc độc chất (như chì) xảy ra trong giai đoạn phân chia tế
bào có thể làm thay đổi khả năng phát triển của thai. Trẻ sinh ra từ
bà mẹ có điều trị thuốc (hydantoin, thuốc chống chuyển hóa) hoặc
thuốc có cocain, heroin, alcohol thường bị chậm phát triển. * Quá
trình tăng trưởng của thai trong 3 tháng cuối ảnh hưởng chủ yếu bởi
sự cung cấp dinh dưỡng qua nhau. Do đó, chúng có thể bị ảnh hưởng
bởi chức năng của bánh nhau, sự thay đổi mạch máu tử cung hoặc cả
hai. Chức năng bánh nhau không đầy đủ có thể do nhồi máu bánh nhau,
u mạch máu, thuyên tắc mạch máu, dây rốn bất thường, nhau bong non.
Các bệnh lý của mẹ gây thay đổi mạch máu như sản giật, tiểu đường,
cao huyết áp, bệnh thận có thể gây giảm lưu lượng máu tử cung - bánh
nhau và làm thai chậm phát triển. Tình trạng mẹ mập, ốm ít ảnh hưởng
đến sự phát triển thai. Tuy nhiên, năng lượng bà mẹ nhận trong thai
kỳ có liên quan đến sự tăng cân của mẹ, của bánh nhau và cân nặng
của trẻ. Bà mẹ mang thai hút thuốc lá sẽ làm giảm rõ rệt cân nặng
lúc sinh của trẻ (có thể giảm cả chiều cao và vòng đầu). Nguyên nhân
có thể do ái lực của khí CO (Carbon monoxide) đối với hemoglobin cao
hơn oxy, gây thiếu oxy thai và do tác động gây co mạch tử cung của
nicotine. Những tình trạng làm thay đổi khả năng phát triển thai
hoặc gây giảm phát triển thai sớm (trước 34 tuần tuổi thai) làm giảm
cả cân nặng, chiều cao và vòng đầu. Tuy nhiên, những tình trạng gây
giảm cung cấp dinh dưỡng của thai hoặc giảm tưới máu tử cung - bánh
nhau thường ảnh hưởng đến cân nặng trước (gây nhẹ cân không cân
đối). Hầu hết trẻ nhẹ cân cân đối không tìm được nguyên nhân, còn
trẻ nhẹ cân không cân đối thường có nguyên nhân do mẹ bị sản giật,
cao huyết áp. IV. Chức năng trẻ nhẹ cân có gì thay đổi? Trẻ nhẹ cân
có sản phẩm nitrogen trong máu cao như ammonia, urea và acid uric,
chứng tỏ có tăng dị hóa protein. Những trẻ này có rối loạn tân tạo
glucose và phân hủy glycogen. Do đó, trẻ có khuynh hướng hạ đường
huyết kéo dài trong nhiều tuần. Ở bào thai suy dinh dưỡng, tim,
phổi, thận to hơn trẻ bình thường ở cùng cân nặng; Trong khi lách,
gan, thượng thận, tuyến ức thì nhỏ. Dự trữ glycogen trong tim và gan
giảm, sợi cơ tim nhỏ hơn bình thường. V. Tỷ lệ trẻ nhẹ cân chiếm
khoảng bao nhiêu? Tỷ lệ trẻ nhẹ cân ở các nước đang phát triển cao
hơn ở các nước đã phát triển. Một số nơi, trẻ có cân nặng lúc sinh
dưới 2.500g chiếm tỷ lệ hơn 10%. Trong nhóm nhẹ cân, trẻ đủ tháng
chiếm từ 17-80%. Ðiều trị bệnh lý mẹ lúc mang thai, theo dõi sự phát
triển thai có thể giúp giảm tỷ lệ trẻ nhẹ cân. VI. Trẻ nhẹ cân có tỷ
lệ mắc bệnh và tử vong thế nào? Các vấn đề thường gặp ở trẻ nhẹ cân
là ngạt, viêm phổi hít phân xu, hạ thân nhiệt, hạ đường huyết, đa
hồng cầu, những bệnh lý do dị tật bẩm sinh, nhiễm trùng bào thai.
Nguyên nhân chính gây tử vong là ngạt. Trẻ chậm phát triển càng nặng
thì tỷ lệ thai lưu, sinh ngạt, hạ đường huyết, hạ calci/máu, đa hồng
cầu càng tăng đáng kể. Trong nhóm trẻ chậm phát triển nặng, hầu hết
là trẻ nhẹ cân không cân đối. VII. Dự hậu lâu dài của trẻ nhẹ cân
Trẻ nhẹ cân cân đối thường bị tổn thương khả năng tăng trưởng từ
giai đoạn đầu của bào thai. Còn trẻ nhẹ cân không cân đối bị tổn
thương khả năng tăng trưởng chỉ trong giai đoạn ngắn ở cuối thai kỳ.
Do đó, trẻ nhẹ cân không cân đối thường có dự hậu tốt hơn. 1. Sự
phát triển sau sinh Ða số trẻ nhẹ cân sẽ tăng trưởng nhanh, bắt kịp
trẻ bình thường trong 3-6 tháng đầu sau sinh. Tuy vậy, sau giai đoạn
nhũ nhi, lúc 15-18 tháng tuổi và có thể kéo dài tới 7 tuổi, trẻ nhẹ
cân sẽ có cân nặng, chiều cao và vòng đầu nhỏ hơn trẻ sinh bình
thường. Nhiều nghiên cứu cho thấy tình trạng chậm phát triển trong
tử cung có ảnh hưởng lâu dài đến sự tăng trưởng của trẻ. Trẻ nhẹ cân
không cân đối dễ phát triển sau sinh hơn trẻ nhẹ cân cân đối. 2.
Những thay đổi trong thành phần cơ thể Khi so sánh trẻ sinh non nhẹ
cân và trẻ sinh non đủ cân cùng cân nặng, người ta thấy sự tăng cân
của trẻ nhẹ cân bao gồm tăng nước nhiều hơn; và tăng chất béo, chất
đạm ít hơn trẻ đủ cân. 3. Sự phát triển thần kinh Hầu hết các nghiên
cứu đều cho thấy trẻ nhẹ cân có chỉ số thông minh kém hơn trẻ đủ
cân. Trong những năm đầu, trẻ sinh non nhẹ cân dưới 1.500g có tỷ lệ
phát triển thần kinh bất thường, chậm phát triển tâm thần nhiều hơn
trẻ đủ cân. Ở lứa tuổi học đường, trẻ nhẹ cân có chỉ số thông minh,
chỉ số phối hợp nhìn - vận động, mức độ đọc thấp hơn trẻ đủ cân. Các
vấn đề về cư xử như kích động, kém phối hợp động tác, khó tập trung
thường gặp hơn ở trẻ nhẹ cân. Trẻ nhẹ cân sinh ra từ các bà mẹ cao
huyết áp, tiếp tục có đầu nhỏ hoặc vấn đề chậm phát triển thần kinh
hơn trẻ đủ cân. Trẻ chậm phát triển trong tử cung có tỷ lệ chậm phát
triển tâm thần cao, không có khả năng học tập lúc 12-14 tuổi. Tóm
lại, sự hiểu biết về căn nguyên, kiểu tăng trưởng, sự phát triển
thần kinh tâm lý của trẻ nhẹ cân có vai trò rất quan trọng đối với
cả nhân viên y tế và các bậc cha mẹ, để từ đó chúng ta biết cách
chăm sóc và tạo những điều kiện tốt nhất cho trẻ phát triển bình
thường.