Cơ sở sinh học của tính "trăng hoa" và sự thủy chung
Tác giả : BS. ÐÀO XUÂN DŨNG
Những nghiên cứu khoa học về ham muốn tình dục và các hóa chất thần kinh gắn liền với trạng thái này đã cho thấy: động cơ thôi thúc con người đi đến hành động tình dục chủ yếu là do những phản ứng hóa học diễn ra trong bộ não. Thực tế đời sống cũng chứng minh rằng hành động tình dục nhiều khi không xuất phát từ tình yêu hay từ mong muốn thiết lập một mối quan hệ lâu dài, mà chỉ đơn thuần vì nhu cầu hoàn toàn thể chất.
Nguồn gốc sinh học của hành vi tình dục
Nguồn gốc sinh học của hành vi tình dục chính là những tế bào vùng dưới đồi - một vùng chỉ có vài cm2 trong não nhưng đóng vai trò rất quan trọng và phức tạp trong việc điều chỉnh, chi phối những hành vi bản năng như ăn uống hay tình dục. Vùng dưới đồi đã có ở nhiều sinh vật cấp thấp và phát triển sớm hơn nhiều cấu trúc khác của não có chức năng kiểm soát những tiến trình tư duy phức tạp ở con người như ghi nhớ và ngôn ngữ. Vùng dưới đồi cùng với những cơ quan khác điều hòa nồng độ testosterone - hormone tạo ra sự kích thích và hành động tình dục. Hành vi tình dục của nhiều loài động vật và của cả loài người có liên quan với nồng độ của hormone testosterone. Với cả nam lẫn nữ, nồng độ testosterone ảnh hưởng đến ham muốn và hành động tình dục. Tuy nhiên, khác với giới động vật, ở loài người không có mối tương quan tuyệt đối giữa nồng độ hormone và hành vi tình dục vì còn có vai trò can thiệp của ý thức.
Một loại hóa chất khác cũng đã được khám phá có liên quan đến hành vi tình dục, đó là các chất dẫn truyền thần kinh làm nhiệm vụ bảo đảm liên lạc giữa những tế bào của não. Nhà tâm thần học Michael Liebowitz là một trong những người đầu tiên đã nghiên cứu về hóa thần kinh trong tình yêu và tình dục. Ông nhận thấy có những người rất dễ lao vào các cuộc tình dù không thích hợp, tuy nhiên họ lại rất dễ chán, thay bạn tình như thay áo. Ông cho rằng những người này có thể thiếu chất phenylethylamin (PEA) - một hóa chất của não có cấu trúc giống như amphetamin, chi phối cảm xúc sảng khoái và hứng khởi. Vì thiếu hụt kéo dài hóa chất này nên đương sự đã đi tìm sự "vui vẻ" trong những cuộc gặp gỡ lãng mạn hay tình dục. Michael Liebowitz đã cho những người này dùng loại thuốc ức chế men monoamine oxydase (IMAO) - một loại thuốc chống trầm cảm có tác động đến nồng độ phenylethylamin cũng như đến nồng độ của nhiều chất dẫn truyền thần kinh khác như dopamin, serotonin và norepinephrine. Sau khi được điều trị, nhiều bệnh nhân đã hết thói "trăng hoa", hết đi tìm "tình yêu bằng mọi giá", có thể vì họ không cảm thấy tình trạng cô đơn là nặng nề nữa hoặc đã trở nên tự tin, thận trọng hơn trong việc lựa chọn bạn tình. Họ không cần đến sự hứng khởi như khi tìm đến các cuộc tình - một trạng thái giống như dùng amphetamin.
Ngoài phenylethylamin, những khám phá mới còn tìm ra 2 hormone khác là ocytocine và vasopressine cũng đóng vai trò quan trọng trong tình dục và tình yêu. Nồng độ 2 hormone này trong máu tăng lên ở cả nam và nữ khi hứng khởi tình dục và khi xuất tinh. Sự bài tiết ocytocine hình như còn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển những mối liên hệ cảm xúc, khuyến khích sự ghép thành từng cặp bạn tình. Larry Young và cộng sự thuộc bộ môn khoa học về hành vi và tâm thần học, trường Ðại học Emory đã phát hiện ra rằng ocytocine là một trong số nhiều hóa chất thần kinh khác có chức năng điều chỉnh nhiều hành vi xã hội mang thuộc tính của chế độ một vợ một chồng, trong đó có việc nam nữ ghép thành cặp bạn tình và việc người bố dạy dỗ con cái.
Helen Fischer, nhà nghiên cứu nữ, cộng tác viên của khoa nhân chủng học trường Ðại học Rutgers khẳng định rằng, hệ thống các hóa chất thần kinh ở bộ não con người đã tiến triển theo hướng khuyến khích tính hấp dẫn nam nữ và sự giao phối, nhằm làm cho cặp bạn tình duy trì được thời gian cần thiết để sinh sản và nuôi dạy con.
Sự khác biệt về hành vi tình dục của con người so với giới động vật:
Như đã trình bày, không có mối tương quan tuyệt đối giữa nồng độ hormone và hành vi tình dục ở người vì còn có vai trò can thiệp của ý thức. Sự phát triển của ý thức (cơ sở sinh học là vỏ não) đã làm cho hành vi tình dục của loài người phát triển theo 3 hướng tích cực, khác hẳn giới động vật:
Biết loại trừ và phê phán: Hạn chế những mặc cảm có tính chất siêu hình, phê phán sự phủ nhận vai trò của người phụ nữ trong đời sống tình dục, biết lựa chọn bạn tình theo những chuẩn mực tốt đẹp (Ngoài ngoại hình còn phải tính đến năng lực trí tuệ, phẩm chất đạo đức, tâm hồn), không tìm kiếm sự thỏa mãn tình dục bằng mọi giá. Ðặc thù này là cơ sở cho mối quan hệ chung thủy giữa vợ và chồng cũng như việc phòng tránh AIDS và nhiều cạm bẫy sa đọa khác.
Biết phát triển, nuôi dưỡng chức năng tình dục: Làm phong phú trí tưởng tượng bằng các sản phẩm văn hóa, tạo điều kiện cho phản ứng tình dục, làm cho tình dục thoát ly ảnh hưởng của ý thức (Không có hoạt động sinh lý nào lại nhạy cảm với hoạt động của vỏ não như sinh lý tình dục...).
Biết tinh lọc và nâng cao: Coi là thấp kém những hành vi tình dục sai lạc, đề cao đời sống tình dục của từng cá nhân (Làm cho hoạt động tình dục có ý nghĩa và yên tâm hơn bằng cách phát minh ra các phương pháp tránh thai, giúp con người làm chủ những quy luật sinh lý khắc nghiệt về sinh sản), quan tâm đến yếu tố làm phong phú, đa dạng thêm đời sống...