NHÂN CÁCH NGƯỜI TÌNH
DỤC ĐỒNG GIỚI
BS. ĐÀO XUÂN DŨNG
Nhiều lá thư của
những người có xu hướng tính dục khác thường, trong đó một số là những người
tình dục đồng giới (TDĐG), họ bộc lộ một thái độ chân thành và đau khổ về
tình trạng tính dục của mình. Họ là học sinh, sinh viên, giảng viên đại
học... họ đáng thương hay đáng trách, hành vi của họ có phương hại đến đạo
đức xã hội không và xã hội cần nhìn nhận những xu hướng tính dục khác thường
như thế nào, loại nào đáng phê phán và loại nào cần rộng lượng, đó là những
câu hỏi đặt ra cho bài viết này.
Bàn về tình dục đồng giới
là bàn về một xu hướng tính dục không bình thường - đó là sự hấp dẫn, thu
hút về mặt tình cảm và thể chất với một cá thể cùng giới. Xu hướng tính dục
là một trong 4 yếu tố tạo nên tính dục người. Đừng lầm lẫn tính dục
với tình dục (thuật ngữ này chỉ phản ánh quan hệ tính giao giữa nam
nữ). Tính dục là một khái niệm có nội hàm rộng hơn, vừa phản ánh quan hệ
tính giao giữa 2 cá thể khác giới (trong tuyệt đại đa số trường hợp) vừa
chứa đựng những yếu tố tạo nên phần hữu hình và cả phần vô hình của một con
người.
Ngay từ những năm 70, Ủy
ban giáo dục và thông tin về tình dục ở Mỹ đã đưa ra định nghĩa hiện đại về
tính dục như sau:
Tính dục là tổng thể
con người, bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của con trai hoặc con gái, đàn
ông hoặc đàn bà và biến động suốt đời. Tính dục phản ánh tính cách con
người, không phải chỉ là bản chất sinh dục. Vì là một biểu đạt tổng thể của
nhân cách, tính dục liên quan tới yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tinh thần
và văn hóa của đời sống. Những yếu tố này ảnh hưởng đến sự phát triển nhân
cách và mối quan hệ giữa người với người và do đó tác động trở lại xã hội.
Như vậy, tính dục người
là toàn bộ con người đó như là người nam hay người nữ và những yếu tố tạo
nên
tính dục cũng là những thành phần làm nên nhân cách - tổng thể
những phẩm chất tâm lý đặc trưng ở một con người, thể hiện ra bằng hành vi
ứng xử. Với định nghĩa nói trên, khi xem xét tính dục đồng giới, ta đồng
thời xem xét những biểu hiện nhân cách của những có xu hướng tính dục này.
Ngoài xu hướng tính dục,
3 yếu tố khác tạo nên tính dục là: Giới sinh học (hình thái, cấu trúc và
chức năng của cơ thể nam nữ). Bản sắc giới (cảm nhận tâm lý thuộc về nam hay
nữ). Vai trò xã hội của giới (có hành vi phù hợp với chuẩn mực văn hóa của
giới nam hay nữ, thường được coi là giới tính tâm lý).
Những xu hướng tính dục
thường dễ nhận thấy nhất ở loài người là xu hướng tính dục khác giới (hấp
dẫn về mặt tình cảm và tình dục với người khác giới), xu hướng tính dục cùng
giới (hấp dẫn với người cùng giới), xu hướng lưỡng tính dục (hấp dẫn với cả
2 giới), cũng có thể còn có một xu hướng nữa là không hấp dẫn với bất cứ một
giới nào (asexual). Những người có xu hướng tính dục đồng giới có thể là nam
hay nữ. Không phải lúc nào xu hướng tính dục cũng được biểu lộ để mọi người
nhận thấy, nhiều khi nó được giấu kín.
Căn cứ vào những điều nói
trên, người TDĐG chỉ khác với mọi người chủ yếu ở xu hướng tính dục (hấp dẫn
với người cùng giới), ngoài ra họ có cấu trúc gen bình thường (XY hoặc XX)
với hình thể bình thường thuộc nam hay nữ, có bản sắc giới bình thường (vẫn
cảm nhận mình là nam hay nữ) và vai trò giới cũng bình thường trong hầu hết
trường hợp (sống và cư xử như một người nữ nếu là đồng giới nam và ngược
lại). Vậy nhân cách người có hành vi TDĐG có gì đe dọa xã hội, ngoại trừ xu
hướng tính dục của họ?
Để trả lời câu hỏi trên,
ta hãy xem xét vì sao họ lại có hành vi tính dục khác đa số và hành vi đó có
nên coi là bình thường và tự nhiên không, họ đã được giới khoa học nhìn nhận
như thế nào và hành vi của họ có hại gì cho xã hội?
Các nhà tâm lý, các khoa
học gia về sức khỏe tâm thần và tính dục người đều chia xẻ quan điểm coi
hành vi TDĐG là một xu hướng tính dục có tính chất cố định, không phải là sự
lựa chọn của cá nhân, nó được hình thành ngay từ nhỏ do sự tác động qua lại
của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội, trước cả khi có trải nghiệm tình
dục. Có một số người đã thử thay đổi xu hướng tính dục, từ đồng giới chuyển
thành khác giới nhưng không thành công. Xu hướng TDĐG, tuy chỉ chiếm khoảng
5% số người đã trưởng thành (dữ liệu Mỹ) nhưng không có nghĩa là không giống
đa số là không bình thường, vì thế nào là bình thường khi người TDĐG
không thể chấp nhận hành vi tính dục khác giới và ngược lại, nhưng cả hai
lại coi hành vi của người lưỡng tính dục là bình thường. Giả thuyết có vẻ
hợp lý nhất, dựa trên những nghiên cứu các cặp song sinh, cho rằng những
người TDĐG có những thay đổi khó nhận biết ở bản thân các gen, ở tác dụng
qua lại giữa các gen và bộ phận cảm thụ hóc-môn của các trung tâm thần kinh
(vùng dưới đồi, não giữa) nơi chi phối mọi hành vi, cảm xúc tình dục. Vì
thế, những người TDĐG chỉ là nạn nhân của một cấu trúc sinh học mà họ
không thể thay đổi được. Năm 1973, Hội tâm thần học Mỹ đã không để TDĐG
vào danh sách các bệnh về tình cảm và tinh thần, năm 1975 Hội Tâm lý Mỹ cũng
đã thông qua một nghị quyết ủng hộ chủ trương nói trên. TDĐG không được xếp
vào danh sách các bệnh tinh thần hay rối loạn tình cảm - những người có xu
hướng tính dục này hoàn toàn khỏe mạnh, họ có năng lực thể chất như nhiều
người khác (phần lớn có khả năng hoạt động tình dục bình thường và có thể
sinh sản, chỉ có điều họ bị chi phối bởi xu hướng tính dục nên không thể có
hấp dẫn với người khác giới) và nhiều người có năng lực trí tuệ của nhà khoa
học, nhà văn, nhà thơ. Họ vẫn có những đam mê công việc, yêu quý người thân
và cũng biết nuôi dạy con cái như những bậc cha mẹ tốt. Những trẻ được những
người TDĐG nuôi dạy không thấy có sự phát triển khác thường về chỉ số thông
minh, tâm lý, vai trò xã hội, bản sắc giới, quan hệ bạn bè... so với những
trẻ khác. Do hoàn cảnh xã hội chưa có thái độ dung nạp, thậm chí nghiệt ngã,
nhiều người TDĐG có cuộc sống cách biệt, phải chịu đựng những nhìn nhận
không chính đáng cho nên có thể có những tâm trạng như mặc cảm, hoài nghi xã
hội. Cũng có thể kèm theo một rối loạn nào đó như thích bái vật (nảy sinh
hứng khởi tình dục với bộ phận nào đó của cơ thể như bàn chân, bàn tay,
tóc... hoặc đồ vật tiếp xúc với bái vật như giày dép)... nhưng tỷ lệ những
rối loạn này ở người TDĐG không khác gì so với quần thể tình dục khác giới.
Nhiều người đã xem xét
vấn đề TDĐG dưới góc độ đạo đức và tôn giáo mà không quan tâm đến các yếu tố
di truyền, sinh học một cách nghiêm túc để hiểu rõ hơn chứng xu hướng tình
dục này: nó không có hại cho cộng đồng vì không lây lan, chỉ thuộc một người
hạn chế, nó không đe dọa sự tồn tại của giống loài, cũng chỉ liên quan đến
một số đàn ông và đàn bà thường rất hiền lành. Vì vậy họ không thể là mục
tiêu để phải chịu sự kỳ thị hoặc đàn áp của xã hội. Có hại hay không có hại
cho giống loài có lẽ sẽ là cốt lõi của vấn đề chấp nhận hay không chấp nhận.
Nhận thức như vậy cho nên trên thế giới nhiều nước đã đặt hành vi TDĐG dưới
sự bảo vệ của pháp luật, coi đó là biểu hiện của xu hướng tính dục tuy khác
thường nhưng cần được bình đẳng về mọi mặt như những người khác. Hiện nay
cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế bảo vệ quyền cho những người có xu hướng
tính dục được coi là "thiểu số" này. Siecus, trong phát biểu về những nguyên
lý của tính dục người đã nói: "Xu hướng tính dục là vấn đề thuộc về quyền
cơ bản của con người, là thành phần của bản sắc giới, giới tính và là sự tự
khẳng định chức năng tính dục của mỗi người thuộc tình dục đồng giới hay
khác giới".
Mặc dù các xã hội phương
Tây đã trải qua các giai đoạn biến động về lối sống và quan niệm về tình dục
(những năm 60 đã có phong trào giải phóng phụ nữ và cuộc cách mạng tình dục
trong đó có việc đòi quyền bình đẳng và hợp pháp cho những người TDĐG). Hơn
3 thập kỷ đã trôi qua, nhiều đòi hỏi của thời kỳ đó đã không còn được nhắc
đến nữa như "tình dục không hạn chế", "cấm không được cấm" do xuất hiện nỗi
kinh hoàng về căn bệnh AIDS. Nhưng với hành vi TDĐG thì thái độ của nhiều
cộng đồng vẫn biểu lộ thái độ dung nạp, không thay đổi. Tuy nhiên, các cộng
đồng xã hội văn minh, không trừ một cộng đồng nào, cho đến nay đều vẫn không
tỏ ra dung nạp với nhiều hành vi tình dục sai lạc khác, nhất là hành vi
cưỡng dâm, loạn luân, tình dục với trẻ em.
Tóm lại, sự không hiểu
biết đầy đủ của một bộ phận cộng đồng về loại xu hướng tính dục này (những
người TDĐG) đã gây cho họ nhiều khó khăn và thiệt thòi trong đời sống. Có
nhiều người có tâm trạng bế tắc, chán chường, thậm chí muốn tự tử, có người
đã cầu cứu đến các nhân vật khoa học, các nhà văn để giãi bày nỗi khổ của
mình. Vậy không thể bỏ qua nguyện vọng chính đáng của họ là được sống như
một nhân cách bình thường khác, không bị kỳ thị, thành kiến, coi thường.
Có lẽ muộn còn hơn không bao giờ, đã đến lúc cần có những nghiên cứu nghiêm
túc về thực trạng nhóm người có xu hướng tình dục khác thường này để có định
hướng dư luận xã hội và giúp đỡ họ.