MẶT TRÁI CỦA CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ
BỆNH LIỆT DƯƠNG
BS. HỒ ĐẰC DUY
·
Quan niệm điều trị bệnh liệt dương (ED) của Hải
Thượng Lãn Ông và của phương Tây.
·
Điều trị bệnh liệt dương ra sao?
·
VCD và lắp đặt dương vật giả là gì?
·
Các tai biến khi sử dụng một số phương pháp này
Hải Thượng Lãn Ông, một danh y Việt Nam thế kỷ thứ 17 đã viết trong tác phẩm
Y Trung Quan Kiện, cuốn 25 "Dương sự khỏe hay yếu là do chấn hỏa thịnh
hay suy, vì hỏa tác dụng nhưng căn bản là do tinh sự... Sách nói vị mạnh thì
thận khỏe và tinh khí dồi dào, vị hư thì tinh bị tổn thương mà dương sự cũng
bị suy kém..."
Nói cho cùng thì ông cho rằng vị ảnh hưởng mạnh mẽ đến tinh sự. Cái cốt lõi
điều trị bệnh liệt dương là phải chú ý đến tỳ vị tức là phải chú trọng đến
sự hấp thụ thức ăn, chú ý đến chức năng của hệ tiêu hóa và chế độ tiết thực.
Quan niệm điều trị hiện đại của phương Tây, thì đặt trọng tâm vào các nguyên
nhân gây ra liệt dương hay còn gọi là rối loạn cương dương vật (Erectile
Dysfunction ED). Các nguyên nhân có thể do tâm lý hay bệnh lý ví dụ như bệnh
tiểu đường, bệnh tim mạch, bệnh cao huyết áp hoặc do tình trạng nghiện rượu,
thuốc lá v.v...
Hiện tại có 5 phương pháp điều trị bệnh liệt dương:
o
Dùng dụng cụ bơm chân không.
o
Lắp đặt dương vật giả.
o
Giải phẫu mạch máu dương vật.
o
Dùng thuốc uống.
o
Dùng thuốc chích vào thể hang dương vật.
Tâm lý liệu pháp luôn luôn được dùng kèm theo các phương pháp điều trị
này.
Thử điểm qua các mặt lợi và hại, kết quả có được cũng như các tai biến
của từng phương pháp này mang lại, nó phải được đánh giá về phương diện khoa
học, cũng như sự an toàn thoải mái từ phía bệnh nhân và người hôn phối của
họ.
PHƯƠNG PHÁP DÙNG DỤNG CỤ BƠM CHÂN KHÔNG (Vacuum Constriction Device)
Vào đầu thế kỷ 20 người ta biết sử dụng nguyên tắc bơm chân không để làm
cương dương vật, nguyên tắc bơm chân không giống như một loại giác hơi mà
chúng ta thường dùng.
Nguyên tắc của VCD là tạo một khoảng chân không trong
ống. Dương vật cương lên do sức hút chân không, áp lực hút làm máu dồn đến
dương vật một cách cơ học. Để đạt được kết quả, áp lực trong ống tối thiểu
là 100 mmHg và cao nhất không được quá 225 mmHg.
Sau khi dương vật đạt đến độ cương cần thiết thì người sử dụng sẽ tròng
một cái vòng hoặc một cái đĩa vào gốc dương vật với mục đích là thắt làm ứ
máu. Muốn giữ máu trong dương vật không cho trở về, thì vòng chắn phải gắn
khít một cách thoải mái, không nên gắn quá chặt, nếu sau vài phút mà dương
vật xìu hoặc giảm cương, bầm tím hay đau quá, thì phải xem lại kích cỡ của
vòng chắn. Để giúp tạo một môi trường chân không kín, khi bôi trơn dương vật
và phần xương mu thì nên sử dụng một lượng chất bôi trơn thích hợp.
Ngay sau khi đạt được sự cương cứng, phần chân không còn lại phải được
giải trừ. Vòng chắn được tháo ra trong vòng 30 phút nếu không nguy cơ làm
hoại tử có thể xảy ra.
Dụng cụ bơm chân không gồm:
o
Ống bằng plastic.
o
Một bơm tay hay bằng điện.
o
Vòng hay đĩa chắn nhiều cỡ khác nhau.
o
Thuốc mỡ bôi trơn.
VCD đã được sử dụng như là một giải pháp đơn giản để duy trì sự cương
cứng, tuy nhiên bệnh nhân cần phải hiểu rõ những tai biến khi dùng nó.
Báo cáo đầu tiên về hiệu quả, an toàn của dụng cụ này do các nhà nghiên
cứu Nadig, Ware và Blumoff đã được tăng tải trên tạp chí Y khoa năm 1986, kể
từ đó phương pháp này được cải tiến và sử dụng rộng rãi.
Năm 1992 Broderick chỉ ra tình trạng thiếu máu dẫn đến hoại tử dương vật
khi dùng VCD, năm 1993 Michael S Cookson báo cáo kết quả nghiên cứu dài hạn
5 năm trên 216 bệnh nhân dùng VCD có khoảng 6% bệnh nhân bị tai biến trầm
trọng khi sử dụng VCD như tê, mất cảm giác, thay đổi sự thích thú và cực
khoái, làm lệch dương vật, tạo tím bầm, làm xuất huyết, đau và sưng phù
dương vật... sau khi dùng VCD.
LẰP DƯƠNG VẬT GIẢ (Prosthesis Implantation)
Đó là một cách nói, thực sự người ta giải phẫu dương vật và đặt vào đó
một thiết bị, có hai loại: thiết bị dùng thủy lực và một loại không dùng
thủy lực.
Thiết bị không dùng thủy lực
Là một thanh chất dẻo, đàn hồi, bán cứng, có thể uốn
cong được. Hình dạng của chúng có thể là một thỏi, hoặc từng đoạn nối liền
nhau bằng những mắt xích, một ống hay một thanh đơn giản bên trong có nòng
thép chịu lực.
Ví dụ như thiết bị không dùng thủy lực AMS Malleable 600 (the American
Medical Sysytem) có hai thanh bán cứng, mềm dễ uốn dùng để đặt vào trong hai
thể hang, thiết bị mới của loại này là AMS Malleable 650.
Loại DuraPhase lại là một đôi ống mềm, bán cứng. Mỗi ống gồm có mười hai
đoạn nhỏ bằng polysulfone gắn lại với nhau bằng các khớp và có thể uốn cong
một góc 17 độ.
Thiết bị dùng thủy lực
Có nhiều loại, cấu tạo chính là các ống thủy lực, chúng được làm từ những
chất dẻo có độ chịu lực cao, độ đàn hồi lớn, tuy nhiên với thời gian chúng
có thể mất độ đàn hồi và gãy.
Ống thủy lực là những ống, có vách rất dai và chắc,
dùng để bơm chất lỏng vào, nó hoặc được cấu tạo riêng từng
cái hoặc dính với nhau bằng một bơm. Ống thủy lực được đặt vào thể hang
dương vật, ống này thường nối với bơm.
Hiện tại trên thị trường có 3 loại chính:
Có loại chỉ có một thiết bị như AMS Dynaflex.
Loại 2 thiết bị gồm có hai ống thủy lực sử dụng cùng một bơm chung như
Mentor G.F.S.
Loại ba thiết bị gồm có hai ống thủy lực, bơm và túi chất lỏng dự trữ như
AMS Ultrex được sản xuất năm 1990.
Phương pháp lắp đặt dương vật giả
Bệnh nhân sẽ chịu một cuộc giải phẫu nhỏ. Một đường mổ được thực hiện ở
phần dưới dương vật ngay nơi nếp tiếp xúc giữa dương vật và bìu dái, người
ta xẻ một đoạn nhỏ dài từ 2 đến 3 cm banh ra tìm hai thể hang, xẻ ra và đặt
vào đó hai thanh dương vật giả, hoặc hai ống thủy lực rồi may lại, nếu dùng
loại thủy lực có hai hay ba thiết bị thì phải tìm chỗ để các thiết bị này,
thường chúng được dấu trong bìu dái hoặc sau xương mu.
Khi làm thủ thuật cần lưu ý để tránh những lỗi kỹ thuật như làm xì vách
ống thủy lực, nhiễm trùng, hoặc dùng thanh dương vật giả hay chiều dài ống
thủy lực không phù hợp với bệnh nhân.
Lỗi kỹ thuật và biến chứng thường xảy ra trong thời gian giải phẫu đặt
dương vật giả hay sau khi lắp đặt tương đối ít trong thập niên vừa qua, tuy
nhiên cũng có những trường hợp thanh bán cứng mất đặc tính đàn hồi, hoặc bị
gãy... Đối với loại ống thủy lực thì có thể thủng hoặc rò rỉ, các chỗ hư hại
này thường nằm nơi chịu nhiều áp lực nhất. Trong tất cả mọi trường hợp đều
phải giải phẫu và lắp đặt hoặc thay thế những thiết bị hư hao. Người ta cũng
còn ghi nhận những trường hợp không chấp nhận của cơ thể khi ghép vật lạ.
Tình trạng đau, giảm cảm giác hay làm cương dương vật bị rút ngắn lại cũng
thường xảy ra. Ba vấn đề hay gặp trong giải phẫu lắp đặt dương vật giả là:
Nhiễm trùng
Nhiễm trùng trong khi mổ vào khoảng 2%, với tỷ lệ 0,6 đến 16,7% cho thiết
bị không dùng thủy lực (Moul và Carson, 1989), đối với loại dùng thủy lực có
3 thiết bị là 0,8 đến 8%.
Đa số do nhiễm khuẩn Staphylococcal, loại vi trùng Gram âm (Kabalin và
Kessler, 1988), có những trường hợp nhiễm nấm, nhiễm vi trùng Gonococcal...
Dấu hiệu đầu tiên của nhiễm trùng thường xảy ra là sự dày dính giữa lớp
da và mô dưới da, ở nơi đặt thiết bị bơm vào trong bìu dái...
Xơ hóa
Bệnh Peyronie, chích thuốc vào dương vật, tình trạng cương cứng lâu kéo
dài là những yếu tố dễ gây tình trạng xơ hóa (Eigner, Kabalin, 1991), ngoài
ra xơ hóa không tìm ra nguyên nhân cũng là một vấn đề. Xơ hóa thường dễ xảy
ra ở những lần lắp đặt sau, xơ hóa thường hay đi kèm với sự nhiễm trùng.
Sự bào mòn
Nguyên nhân là do tổn thương mô trong khi giải phẫu, do nhiễm trùng, do
thiếu máu cục bộ. Mòn bộ phận dự trữ trong bàng quang cũng được ghi nhận
(Dupont và Hochman 1988).
Giải phẫu mạch máu
Giải phẫu mạch máu dương vật chỉ được tiến hành sau khi có chẩn đoán
chính xác về rối loạn cương dương vật có nguyên nhân do mạch máu.
Giải phẫu tĩnh mạch dương vật có mục đích là ngăn cản máu từ các hang
chảy về tĩnh mạch. Trước khi giải phẫu bệnh nhân phải được đánh giá một cách
chính xác về tình trạng, sự lưu thông máu trong thể hang, phải bảo đảm chắc
chắn rằng động mạch cung cấp máu cho thể hang bình thường...
Giải phẫu động mạch dương vật hiện tại rất khó đánh giá vì chưa có tiêu
chuẩn thống nhất. Tái tạo lại động mạch dương vật có thể có hiệu quả ở những
người trẻ tuổi bị chấn thương hơn là sử dụng như một phương pháp điều trị
bệnh liệt dương.
Giải phẫu mạch máu, nhất lại là mạch máu của dương vật quả thật là khó
khăn, không chỉ là nó quá nhỏ mà còn chẳng may thất bại thì có thể dẫn đến
những hệ lụy khó lường được, cho nên nó chỉ nên được thực hiện như một
trường hợp nghiên cứu ở một trung tâm giải phẫu kỹ thuật cao.
Một cách tổng quát thì biện pháp giải phẫu mạch máu chỉ sử dụng khi có
nguyên nhân là rối loạn chức năng của tĩnh mạch cũng như động mạch, thường
là ở cuối giai đoạn chín mùi tỷ lệ thành công rất kém, chỉ dưới 40%, và biến
chứng như nhiễm trùng, đau, cương cứng lâu và đau sau hậu phẫu, kể cả hoại
tử dương vật là những nguy cơ có thể gặp bất cứ lúc nào (Jarrow và De franzo
1992).
Đa số bệnh nhân dùng VCD đều than phiền là dương vật cương lên một cách
giả tạo, một vài người khác cho rằng không thích thú khi xuất tinh hoặc
không đạt được cực khoái, dương vật có vẻ lạnh đi và không có sức sống, đôi
khi có những vết bầm tím, một cảm giác khó diễn tả được.
Một nghiên cứu so sánh giữa hai nhóm bệnh nhân sử dụng VCD và chích thuốc
giãn cơ vào thể hang dương vật, cho thấy có 59% dùng thuốc chích bỏ cuộc so
với 16% dùng VCD.
Một số khác cho thấy nếu kết hợp giữa VCD và chích thuốc thì kết quả tốt
hơn.
Các nhà nghiên cứu khuyến cáo các bệnh hẹp bao da qui đầu, bị tổn thương
cột sống hoặc có vấn đề thần kinh cần phải lưu ý khi sử dụng các phương pháp
trị liệu này.
(Còn tiếp)