Hành Hạ, Tù Ðày Và Sức Khỏe
Nguyễn
Ý Đức
Câu Chuyện Thầy Lang
Trong hơn một phần tư thế kỷ tiếp tục hành nghề tại hải ngoại, y giới chúng tôi
đã có nhiều dịp được tiếp xúc với một lớp người mang những tâm trạng rối loạn về
thể chất rất đáng để ý. Tìm hiểu căn nguyên của các bệnh tình này cũng không mấy
khó khăn vì đa số là nạn nhân của một quá trình bị hành xác triền miên, đã mấy
chục năm qua hậu quả xấu trên sức khỏe của họ dường như vẫn còn. Ðó là những
người được mệnh danh là “ Tù Nhân Cải Tạo”.
Sao mà cứ “ăn cơm mới nói chuyện cũ” hoài vậy?
Vâng, đây là câu ta thường nghe một số người nêu ra, khi có ai nhắc tới cuộc
chiến ở Việt Nam với các hậu quả của nó. Một trong những hậu quả bi thảm nhất là
sự hành hạ các anh chị em quân cán chính miền Nam trong nhiều trại tù đầy sau
ngày 30/04/1975. Nếu có ở trong hoàn cảnh của họ thì ta mới hiểu được những đau
đớn mọi mặt mà họ đã phải trải qua.
Vả lại, người ta cứ lớn tiếng hô hào khép lại quá khứ mà luôn luôn hậm hực với
“Sen Ðầm Quốc Tế Mỹ” và nghi kỵ nhưng trục lợi với “Khúc Ruột Ngoài Ngàn Dặm”.
Đã 30 năm rồi người ta vẫn linh đình ăn khao chiến thắng trên sự ngao ngán thở
dài của dân chúng trong ngoài nước, thì phải chăng “nói vậy mà không làm vậy”.
Và chỉ mới đây thôi, vài tấm bia vô tri bằng đá mang mấy dòng chữ tưởng niệm
linh hồn những người cùng máu mủ tử nạn khi vượt biên tìm tự do và tri ân quốc
gia cứu giúp cũng bị người ta tìm cách phá hủy. Thiết nghĩ rằng, những người
cộng sản đã quá vô cảm, chẳng còn một chút tình người.
Cho nên nhắc lại để người ta nhớ cũng là chuyện nên làm. Vì chính những nhân vật
chủ trương ra lệnh tù đầy “ngụy quân, ngụy quyền” hồi đó cũng đã lên tiếng nhận
có sai lầm chính sách về chuyện cô lập vô nhân đạo này.
Sau ngày 30/04/75, mọi người đều e ngại về một cuộc tàn sát trả thù đẫm máu vì
đã có những lời đồn đại về hành động này. Nhưng tới phút chót, người thắng trận
miền Bắc đã nghĩ ra một giải pháp có vẻ nhân đạo hơn nhưng thương tích sâu đậm
dài lâu hơn. Quân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa đã được khuyến dụ trình diện để
“học tập” ngắn hạn. Gọi là “tìm hiểu đường lối, chính sách của nhà nước và để
gột bỏ tàn tích chống phá cách mạng khi xưa”. Chính quyền mới hứa là thời gian
học tập chỉ vài tháng rồi ai nấy trở về với gia đình, phục vụ đất nước.
Nhưng thực ra đây là một sự tù đầy, tẩy não, hành xác. Có người vài ba năm. Rất
nhiều người mươi năm. Và số người triền miên tù đầy gần hai chục năm cũng không
ít. Lại còn một số đáng kể chết mất xác trong tù đầy hành hạ. Người sống sót trở
về đã kể lại nhiều thảm cảnh mà họ phải gánh chịu trong thời gian đau khổ ấy.
Những thảm cảnh mà nghe lại ai cũng rùng mình.
“Rồi mai đây, nếu vì may mắn nào đó, tôi được sống trong môi trường khác, tôi
có bổn phận phải nhớ và nhớ thật kỹ tất cả những gì đã xẩy ra, đã khắc xâu vào
tâm khảm tôi những chứng tích khổ đau, hờn hận!”, Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục,
trang 152.
Sau đây là một số nhân chứng đã trải qua các cuộc hành xác tù đầy, kể lại những
hình thức hành hạ nạn nhân. Chúng tôi xin phép các tác giả trích đăng để thế hệ
con cháu trong ngoài nước hiểu rõ mà tránh đi vào vết xe cũ. Cũng để cảm ơn vì
các ghi chép đã giúp thầy thuốc hiểu rõ nguyên nhân xa gần đưa tới bệnh tật của
thân chủ và dễ dàng hơn trong khi điều trị, chăm sóc.
Chứ chẳng phải để tiếp tục nuôi dưỡng những hận thù mà làm chi.
Điều kiện sống mất vệ sinh
Vệ sinh trại: Chật chội, ngột ngạt hơi người, mùi hôi của mọi người, mọi
bệnh riêng của mỗi người, cả tháng không tắm. Cả ngàn người có một giếng nước,
kéo một lúc đã cạn nước, nhiều khi có chuột bọ chết thối trong giếng. Ăn uống
vào là bị kiết lỵ. Đi cầu vào các dẫy hố đào trên mặt đất…
“Cả trại nhốn nháo về bệnh kiết lỵ. Hầu như không khu nào thoát. Chưa bao giờ
buổi sáng lại đông người chờ đi cầu như vậy. Mặt mũi người nào cũng nhăn nhó,
mệt mỏi trông thật thảm hại... Thật đau khổ, lúc nào bụng cũng quặn đau, mỗi lần
đi cầu són ra một chút, phân ít, mũi máu nhiều. Từ nơi tôi ở ra nhà cầu khá xa.
Để tiện việc, tôi không về nhà, ngồi ngay ở căn nhà chiếu Tivi sẵn sàng chạy ra
hố cầu khi cần. Không phải mình tôi như vậy mà hàng chục người tay cầm lon nước,
ngồi bệt xuống mặt cát. Bệnh của tôi kéo dài cả tuần sau khi uống cả lọ
tetracycline do Lan cho. Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm
mỗi hai tuần một lần. Tuy nhiên nhiều khi cán bộ bận hay có việc gì bất thường
thì phải chờ lâu tới ba tuần”, Tầng Ðầu Địa Ngục - Linh Mục (LM)
Nguyễn Hữu Lễ
Nhà cầu nổi:
“Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại
tre to và rỗng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại tiểu
tiện vào đó....Khi đi đại tiện, người tù phải dùng tới hai ống bẩu, mỗi tay cầm
một cái. Ống hứng nước tiểu phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau... Ống
phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường
kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc “thi hành nghĩa vụ” của
bản năng, nói nôm na là “đi cầu”, người tù phải quàng tay ra đằng sau để giữ cái
ống bẩu. Nếu ống này nặng quá, người tù không thể giữ ống sát vào mông, tuột tay
làm đổ phân tung tóe trong buồng..
Vì đã làm quen với cuộc sống tù quá ư là chật trội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện
nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi
hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Buồng giam chỉ có một cửa
sổ duy nhất và rất hẹp, không khí không thể lùa vào buồng được. Do đó chúng tôi
cứ phải thở ra hít vào buồng phổi mình cái hơi nóng của bầu khí trong buồng mà
tôi có cảm tưởng nó đã đặc quánh lại thành một thứ chất dẻo, không còn là ở thể
khí nữa”, Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn Hữu Lễ.
Lao động quá sức
Tù nhân bị ép buộc phải liên tục “hạ quyết tâm” làm những điều mà trại đặt ra
như sau:
“Tôi không bao giờ quên rằng tôi là kẻ có tội với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân
dân. Tôi cũng không quên rằng Đảng đã khoan hồng tha tội chết cho tôi, lại tập
trung tôi lại, tạo điều kiện cho tôi học tập cải tạo để trở nên người công dân
lương thiện. Để đền ơn Đảng, tôi nhất trí:
1-Tích cực học tập cải tạo lao động tốt.
2-Giải phóng mọi tình cảm gia đình yếu đuối và tình nguyện ở lại trại học tập
lao động cho dến khi nào được cách mạng công nhận tiến bộ cho về phục vụ xã hội,
phục vụ nhân dân.
3-Trong thời gian học tập tại trại, tôi phải chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy
quy định. Khắc phục mọi khuyết điểm tồn tại. Đấu tranh sai trái để thủ tiêu mọi
mặt yếu của các bạn cải tạo khác hầu biến trại ta trở thành trại cải tao tiên
tiến về mọi mặt.
4-Tố giác kịp thời với Cách mạng bọn xấu trong và ngoài trại đang còn ý đồ chống
phá cách mạng.
5- Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối khoan hồng trước sau như một của cách mạng”.
Hà Thúc Sinh ghi lại trong Đại Học Máu trang 100.
Lao động là thước đo mức độ giác ngộ của tù nhân.Thế là lại được đi lao động để
giác ngộ!
Sau đây là các tiêu chuẩn mà tù nhân phải lao động: Cuốc đất: 150m2/ngày/người;
Trồng mì: 5000m2 / 1 ngày/4 người; Khai quang: 300m2/ngày/người; Lấy cây đường
kính 30cm, dài 4 thước /hai người một cây, xa 3 cây số; đường kính 10 phân, dài
4 thước hai người năm cây một ngày.
Dọa nạt, nhục mạ
“Tao bảo thật với chúng mày ngoài việc lao động như thế có mà ăn cứt, ngày về
của chúng mày cũng kéo dài vô tận. Tao đã lên lớp cho chúng mày nhiều lần rồi.
Cách mạng không có tình trạng lơ lửng con củ cặc. Một, chúng mày học tập lao
động cho tốt để có ngày mà trở về. Hai, bánh xe lịch sử sẽ nghiền nát chúng mày
trong này mất thôi”, Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, trang116.
“Các anh là những người có tội. Chính sách 3 năm cải tạo đề ra, nhưng nó
không phải là mốc nhất định cho tất cả mọi người! Các anh đừng có giả vờ “nín
thở qua sông” để hết cho ba năm thì về. Tôi nói thẳng cho các anh biết, có thể 3
năm cũng có thể 15 hay 20 năm đó!”, Tạ Tỵ - Đáy Địa Ngục, trang 439.
Bỏ đói khát
Có lẽ bỏ cho đói khát là chính sách để kiềm chế, kiểm soát người tù. Nên bất cứ
tù nhân nào cũng nói rất nhiều về sự hành xác này.
“ Đã hơn hai tháng nay, chúng tôi không được ăn miếng thịt nào. Lao động mỗi
ngày 8 tiếng, toàn việc nặng. Cơm không có, mỗi ngày lãnh hai chiếc bánh mì
luộc, mỗi cái khoảng 200 gram và một nửa chiếc bánh buổi sáng 50gram, như vậy
chúng tôi chỉ được ăn 450 gram chất bột với muối, không có chất béo, chất rau và
chất đạm nào! Do đó, ai nấy đều gầy rộc hẳn, da khô khốc. Trên nguyên tắc theo
giấy tờ chúng tôi được ăn 18 kí lô chất bột, 300 gram thịt mỗi tháng, nhưng thực
tế chúng tôi chỉ được ăn 13 kí 500 chất bột.”, Đáy Địa Ngục -Tạ Tỵ
trang 378- 379.
Ăn bất cứ thứ gì là thịt
“ Nam cầm con rắn dài khoảng 6 tấc, to bằng ngón tay cái, không trắng không
đen. Anh tìm sợi dây, buộc đầu con rắn cạp nong treo lên cành cây, rồi dùng lưỡi
dao nhỏ cứa xung quanh cổ rắn. Con rắn lắc lư, lắc lư như chiếc que. Tôi không
hiểu bằng cách nào Nam lột da con rắn nhanh như vậy. Da rắn vứt xuống suối, dòng
nước cuốn đi trong nháy mắt. Nam hạ con rắn xuống mổ ruột, rửa nước suối rối sắt
ra từng khúc, bỏ vào lon ghi gô, cho chút bột cà ri mà lúc nào anh cũng mang
theo, đổ chút nước, thêm tí muối rồi cho lên bếp lửa. Lát sau, hạ xuống, anh
trịnh trọng ngồi trên tảng đá sát dòng suối ăn hết con rắn một cách ngon lành”,
Tạ Tỵ –Đáy Địa Ngục, tr. 439.
Mỗi bữa hai miệng chén cơm nhỏ gạo mục, cả trăm người chỉ có vài chục con cá
ngừ mục thối nấu với rau, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi...Cho ăn để khỏi chết đói,
đó là khẩu hiệu của trại.
Có nhiều tù nhân đã nướng sống sít các con sên con ốc rừng mang hàng triệu vi
trùng sốt rét hoặc ăn quả sung rừng cho đỡ đói, ăn phải quả độc “ đứt thần kinh,
sùi bọt mép, lên kinh phong rồi chết”
“Cái lon nhôm sữa bột guigoz được gọi vắn tắt là cái Gô, là bạn bạn đồng hành
thân thiết của tù. Người tù nào cũng kè kè bên mình một cái vừa đựng nước uống
ra bãi, vừa dùng để nấu canh tại bãi lao động. Những loại rau cỏ dại ăn được tìm
thấy ngay tại hiện trường, lén nhổ bỏ vào gô rồi nhờ nhà bếp nấu. Nấu chín xong
để bụi cát lắng xuống phần dưới, ăn phần rau cũng đỡ cái bao tử rỗng một lúc.
Hôm nào bắt được con cóc, con nhái thì “canh có người lái”, tù gọi là Protein;
con gì cũng qui vào chất thịt, chất protein bổ dưỡng. Tù có câu: “con gì nhúc
nhích là ăn được”; rau gì ăn không chết thì ăn”... Nguyễn Chí Thiệp, Trại
Tù Kiên Giam.
“Tiêu chuẩn ngừoi phạm kỷ luật mỗi tháng còn 9 kg lương thực ăn với nước
muối, mỗi ngày hai bữa hai chén nhỏ xíu . Cơm mới bỏ vào miệng chưa kịp nhai cái
lưỡi đã đưa cơm vào cổ”. Đến bữa ăn phải kềm hãm cố nhai cho thật kỹ, vừa để cho
đỡ buồn, cho qua thời giờ có việc làm. Khi nhai thức ăn, vừa phải nhai kỹ để
thức ăn ít ỏi và quí báu được tiêu thật hết, khỏi phí phạm, giúp cơ thể bòn từng
chút bổ dưỡng để thân xác chịu đựng con người được sống, nhai thật kỹ để chất
thải ra thật ít, 5,7 ngày mới đại tiện một lần, vì đại tiểu tiện đều vào cái
thùng đại liên để ngay bên cạnh bục nằm, đến lúc đầy tràn trật tự mới đổ đi, nên
suốt ngày đêm phải nằm bên cạnh cái của nợ khai thúi đó” Nguyễn Chí Thiệp -
Trại Tù Kiên Giam, trang 35
Thiếu thốn
Chia nhau vài thìa đường: “Anh ta cầm nhanh lấy cái thìa và với một tư thái
rất cẩn trọng, anh gom các phần đường đang chia dở và bắt đầu chia lại. Mười
người mười phần. Trợ chia thật khéo nhưng cũng thật chậm. Đôi khi tay anh run
làm một vài hạt đường rơi xuống miếng giấy dầu, văng dính vào ngón chân anh. Anh
vội lấy ngón tay chấm mấy hạt đường ấy và cho lên miệng. Người ta bực mình nhưng
người ta không thể giành lại những hạt đường đã dính vào những ngón chân cáu bẩn
của kẻ khác. Mỗi người được ba thìa đường sau ba tháng tù”, Hà Thúc Sinh -
Đại Học Máu, trang 148.
“Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mỗi lần đi ngang đống rác trước
cổng trại là mỗi lần đời tôi lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm
nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện,
bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng
cũ hoặc ít giấy bao xi măng làm vở viết chữ Tầu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố học”,
Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn Hữu Lễ.
Hành hạ cơ thể
“Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà
tù nhân bị “đại ca” ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù.
Nếu chỉ để cảnh cáo và áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn
phép thì chỉ cần sử dụng “chưởng” tức là đánh bằng hòn đá bọc trong cái vớ; hoặc
“bẻ ngà” là dùng đá cà hoặc đập gẫy hết cả hai hàm răng. Trường hợp nặng hơn thì
“lấy cấp pha” tức là móc đôi mắt, hoặc “ xin cặp nạng” nghĩa là cắt gân gót
chân. Trường hợp nghiêm trọng thì đối phương sẽ được “cất” có nghĩa là giết chết”,
Tầng Ðầu Ðịa Ngục - LM Nguyễn hữu Lễ.
“Tên vệ binh hung ác vừa quật roi mạnh hơn vừa chửi rủa thậm tệ:
- Đ.M. chúng mày là đồ tư sản, dưỡng xác quen, làm việc chây lười, không cố
gắng, không có kỷ luật gì hết!
Chiếc roi lại tiếp tục rít trong không khí, bay tới tấp vào thân xác ba người
tù. Đại đức Thích Thiện Cao bị đòn đau quá chỉ biết rú lên những câu quen thuộc
“Mô Phật”, rồi nhắm mắt, oằn người lên chịu đựng”, Phạm Quang Giai -Lần
cuối bên anh, trang 247”
Bắt quỳ để trừng phạt
“Nói đến sùi bọt mép mà thấy nét mặt của mười thằng “ngụy” vẫn trơ thổ địa
ra, thằng quản giáo cáu quá hét: Tao phạt chúng mày quỳ hai tiếng. Quỳ xuống!
Bọn tù chỉ liếc nhìn nhau chẳng ai chịu quỳ. Thằng quản giáo đâu có chịu thua.
Hắn móc súng bắn đến đùng một phát. Tránh voi chẳng xấu mặt nào, anh em lần lượt
êm ái quỳ. Thằng quản giáo đứng chửi rủa một lúc rồi mới chịu bỏ đi...”,
Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh, trang 116.
“ Hai chân tôi bị còng chéo để bức cung. Còng chéo hai chân bị đóng cứng chặt
giữa hai cái còng hình chữ U và thanh sắt xuyên. Vì độ cao của thanh sắt giở
hổng hai chân lên thành ra không thể nằm thẳng lưng, vì nằm như vậy thân mình
căng ra hai chân bị siết chặt vào sắt đau buốt tận tủy óc. Người bị còng phải
dùng hai khuỷu tay để chống hoặc cởi hết quần áo ra chêm ngang thắt lưng mới
chịu được một thời gian. Chờ một vài ngày hai cổ chân gầy đi xoay được lật úp
thì hai chân sẽ thẳng ra nhưng phải nằm sấp. Nhưng chỉ vài ngày chân đã sưng húp
vì ban đêm bị lắc còng điểm danh”, Trại Tù Kiên Giam - Nguyễn Chí
Thiệp, tr 473.
Bệnh xá- Bệnh tật
“Mặt đứa nào đứa nấy trông như những quả dưa bở chín rục, chân tay bụ bẫm vì
bị phù do thiếu chất, cứ như những cái xác chết trôi ba ngày, đang xếp hàng dài
trước bếp xin chút nước vo gạo về uống với hy vọng mong manh tí chất cám có thể
cứu nổi căn bệnh phù thũng trầm kha...”, Đại Học Máu - Hà Thúc Sinh,
tr. 251.
“Nói là bệnh xá cho xôm trò chứ nơi đây chỉ là một nhà thường có sạp nằm cho
bệnh nhân. Lúc tôi đến đây thì đã có hai mươi trại viên đang trị bệnh tại đây.
Người tôi bị tê liệt toàn thân do đó những việc vệ sinh cá nhân tôi không làm
được, tôi phải nhờ sự giúp đỡ của hai bệnh nhân nằm hai bên tôi. Hai bệnh nhân
này không cùng một trại với tôi.
Một hôm cán bộ bác sĩ đến tận giường tôi đọc lệnh mà nội dung như sau: - Anh
Phan Phát Huồn, anh là một tên có nợ máu với nhân dân nhưng đảng và nhà nước ta
đã tha tội chết cho anh, anh đau ốm vẫn cho anh nằm ở bệnh xá điều trị, vậy mà
anh không biết điều, vi phạm nội quy của bệnh xá bằng cách quan hệ với người
khác trại, vậy ngay từ giờ phút này anh phải ra khỏi bệnh xá.
Nói xong ông ta ra lệnh cho y công buộc dây thừng vào hai chân tôi và kéo tôi
như một con chó ra khỏi bệnh xá”, AK và Thập Giá - LM Phan Phát Huồn.
“Tại bệnh viện tôi đã nghe nói và chứng kiến những cuộc “căng mùng” ghê rợn.
Căng mùng tức là nói đến giải phẫu bệnh nhân. Để tránh ruồi muỗi bu vào lúc giải
phẫu, bệnh nhân được đưa vào trong mùng. Vì không có thuốc tê nên người ta cột
bệnh nhân vào giường, lại còn có các anh hộ lý đè bệnh nhân xuống để bệnh nhân
khỏi vùng vẫy lúc quá đau đớn. Thường thường bác sĩ dùng dao cạo râu để giải
phẫu. Bệnh nhân gào thét kêu la thảm thiết, tôi có cảm tưởng là một con lợn đang
bị thọc huyết”, AK và Thập Giá -LM Phan Phát Huồn.
“Bệnh nhân bị bệnh gì gã cũng cho uống Xuyên tâm liên. Kiết ly, tiêu chẩy:
xuyên tâm liên. Sốt rét sốt nóng: xuyên tâm liên. Ho lao, sưng phổi: xuyên tâm
liên.Vì thế rất nhiều bệnh nhân chết oan uổng”, Thanh Thương Hoàng, Những
Nỗi Đau Đời, trang 51.
Chứng kiến sự hành hạ tù nhân khác
“Vừa dứt câu hỏi, tên vệ binh xuất kỳ bất ý dùng chân móc cú đá hậu vào khuỷu
đầu gối của Trác, khiến Trác lao chao. Tên cảnh vệ tiếp theo cái lao chao của
Trác bằng một cú đập mạnh báng súng AK vào người Trác, khiến người tù Việt quốc
không còn đủ sức đứng vững, cả thân xác ông rơi xuống như quả sung rụng. Trác
vừa té sóng soài trên hiện trường sám hối thì liền lúc đó tên này tung người lên
dùng một đòn hiểm nhẩy lên đứng trên thân xác của Trác. Các đồng đội của Trác
ngồi trong vòng tròn đều nhắm mắt mỗi khi nhìn thấy tên cảnh vệ dùng những cú
giầy đinh nện mạnh trên mặt, trên người Trác. Máu bắt đầu chan hòa trên hiện
trường sám hối”, Phạm Quang Giai, Lần Cuối Bên Anh,trang 165.
“Tiếng kêu rú rùng rợn vẫn không ngớt phát ra từ những căn phòng xung quanh.
Phượng vẫn ngồi như chết cứng. Rồi đột nhiên đèn bật sáng chói, nàng thấy mình
đang ở trong một căn phòng toàn những dụng cụ tra tấn….Nàng thấy ghê tởm, rồi tự
dưng trong nàng nảy ra một ý định tìm cái chết, trước khi bị tra tấn, nàng đang
nghĩ…Chợt cánh cửa sau bật mở. Nàng vội ngồi thu người lại sát tường, mắt ánh
lên, thấy hai tên chuyên viên tra tấn xốc nách một người đàn ông, kéo sệt trên
nền xi-măng. Mặt người đó tím bầm, hai bên mép ứa máu còn chẩy ra ròng ròng, tóc
rối bù bết máu, đầu ngoẹo sang một bên, mình trần trụi bê bết máu, chân tay mềm
nhũn ra…”, Trần Nhu, Địa Ngục Sình Lầy, trang 163.
Cô lập trong hầm đá
“Tên vệ binh hầm hầm đi về phía cửa hầm đá số 5. Hắn tra chiếc chìa khóa vào
ổ rồi quay một vòng nghe răng rắc. Hắn kéo chiếc cửa sắt nặng nề ra, để lộ một
không gian tối om. Mùi hôi thối từ trong phòng xông ra; đồng thời với tiếng hú
ma quái ngân dài lê thê phát ra từ trong long hầm đá, nghe thật ai oán. Tên vệ
binh trở lại chỗ Sâm ra lệnh:
-Vũ Sâm! Mày vào hầm đá số 5 để mà tưởng nhớ đến người vợ đẹp của mày.
Sâm lần thần đi thật chậm, tiến vào miệng hầm, rồi cũng thật nhanh, anh lọt hẳn
vào bên trong. Vũ Sâm quay người lại nhìn tên vệ binh lần chót trước khi chìm
hẳn vào bóng đêm dầy đặc, vu vơ và tăm tối. Cánh cửa sắt đóng lại, tạo thành một
tiếng sầm khô khan”, Phạm Quang Giai, Lần Cuối Bên Anh, trang 43.
Ngoài ra còn nhiều cách hành hạ khác như:
Trói cột với tù nhân khác; nhốt trong thùng sắt, trong túi; đầy ải ngoài nắng,
nóng, dưới đèn sáng; bịt mắt; chói cột xuống đất; đá đít, bạt tai; giả xử tử;
bắt uống những thuốc lạ; dìm dưới nước; làm cho nghẹt thở; treo lơ lửng trên
không; gây tổn thương cho ngọc hành/ cơ quan sinh dục; tạt phân, nước tiểu lên
mặt; tra tấn bằng điện; châm chọc kim vào đầu ngón tay, ngón chân; không cho
ngủ; bỏ cho muỗi, kiến, đỉa cắn...
Những hành hạ trên đưa tới bệnh tật triền miên cho người sống sót.
Kết luận
Liên Hiệp Quốc coi hành hạ tra tấn là bất cứ hành động nào đưa tới đau đớn về
thể xác và tâm thần nạn nhân.
Theo cơ quan Ân Xá Quốc Tế, sự tra tấn vẫn còn được rất nhiều quốc gia trên thế
giới áp dụng. Tra tấn xẩy ra quá thường khiến cho cơ quan này không ước lượng
được số nạn nhân mà chỉ nêu ra một số quốc gia áp dụng sự hành hạ này, vì chiến
tranh, đàn áp, tiêu diệt chủng tộc.
Các nhà tâm lý xã hội cho hay hành hạ có mục đích làm xáo trộn, hoặc đúng ra là
để phá hủy sự liên tục của cuộc sống con người cho tới một mức độ mà sự hồi phục
trở nên tốn kém đôi khi không sao thực hiện được. Mà đa số nạn nhân bị đối sử
tàn tệ sau đó lại được định cư ở một quốc gia khác như người tị nạn, nên họ gặp
nhiều khó khăn hội nhập vào một nền văn hóa với nếp sống mới, ngôn ngữ mới. Ðó
chính là trường hợp các cựu tù nhân quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa.
Nạn nhân sống sót của tù đầy tra tấn có những phản ứng cảm xúc khác nhau tùy
theo cá tính và căn bản giáo dục: từ giận giữ, phẫn nộ tới cảm thấy nhục nhã;
cảm xúc ngay thẳng chính đáng tới sai trái tội lỗi; tự tin quyết đoán tới tủi
thẹn, xấu hổ. Chắc chắn là họ khó mà quên được những vết thương mà người có
quyền đã để lại trên cơ thể tâm hồn họ. Những ảnh hưởng này sẽ tồn tại rất lâu,
có khi suốt đời. Những hoảng hốt, lo sợ, những trầm buồn, những cơn ác mộng sẽ
thường trực đến với họ và có nhiều tác dụng xấu cho đời sống cá nhân cũng như
gia đình. Rồi lại còn những suy nhược tim gan tỳ phế vì thiếu ăn, thời tiết khắc
nghiệt, lao động khổ sai nơi rùng sâu nước độc. Nhiều ngàn người hiện nay không
thi vào quốc tịch mới được vì trí nhớ suy kém, giảm khả năng học ngoại ngữ. Và
còn cần sự chăm sóc của giới y tế đồng hương trong nhiều năm còn lại của cuộc
đời.
Giải thích để họ hiểu tại sao hành hạ đã xẩy ra có hy vọng một phần nào mang họ
trở lại cuộc sống bình thường. Cũng như một hành động, một lời nói “sorry”(xin
lỗi) từ phía chính quyền hiện tại. Như người da trắng đã sorry với nô lệ da đen
bị kỳ thị, bóc lột trong thế kỷ trước. Cũng như Giáo hội Công giáo đã nhìn nhận
nhiều sai lầm trong quá khứ liên quan tới sự tôn trọng đối với những cá nhân
hoặc cộng đồng.
Thế hệ con cháu khi nghe những chuyện đau thương này của cha chú, chắc cũng rùng
mình kinh sợ. Kinh nghiệm Holaucost vẫn còn ám ảnh lương tâm loài người sau cả
trên nửa thế kỷ. Cũng như thảm cảnh tù đầy “cải tạo” ở Việt Nam vào thập niên
70-80 của thế kỷ vừa qua.
Ghi lại để mà tránh tái diễn. Và nhắc nhở người ta đừng quá ảo tưởng với hào
quang chiến thắng bọt nước mà quên sự tàn ác mà mình đã áp đặt lên những anh em
cùng chung một bọc, Trăm Con Trăm Trứng Tiên Rồng.
Lưu Vũ: Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức là một thân hữu của
ĐCV, đã từng sang Ba Lan thăm anh em trong BBT. Hiện nay ông sống tại Texas, Hoa
Kỳ