NGUYỄN VĂN TUẤN

Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp

Nguyễn Văn Tuấn

(Bài đã đăng trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 28/2/08)

Mối tương tác giữa khoa học và truyền thông thường diễn ra theo một một qui ước bất thành văn gọi là “Qui ước Ingelfinger” theo thứ tự sau đây: nhà khoa học, tập san khoa học, và truyền thông.  Hệ thống truyền thông chuyển tải những thành quả nghiên cứu khoa học đã được bình duyệt và công bố trên tập san do nhà khoa học soạn thảo. 

Theo qui ước này, sau khi hoàn tất một công trình nghiên cứu, nhà khoa học soạn báo cáo và gửi cho một tập san khoa học; ban biên tập tập san gửi bản thảo bài báo cho các chuyên gia trong ngành để bình duyệt (hay phản biện); và qua đề nghị của các chuyên gia bình duyệt, ban biên tập tập san có thể chấp nhận cho công bố bài báo.  Sau khi bài báo được công bố trên tập san, giới truyền thông mới có quyền đưa tin về công trình nghiên cứu. 

Trong thời gian bài báo còn trong vòng bình duyệt và phản biện (thường kéo dài từ 3 tháng đến 12 tháng), hay đã duyệt xong nhưng chưa in trên tập san, nhà nghiên cứu không được tiếp xúc với báo chí để nói về kết quả của công trình nghiên cứu.

Tuy nhiên, trong thực tế thỉnh thoảng vẫn xảy ra những trường hợp mà các nhà khoa học vì lí do nào đó không tuân hành theo qui ước trên và để lại vài hệ quả nghiêm trọng.  Tháng 4 năm ngoái, tập san New England Journal of Medicine (NEJM, một tập san y khoa số 1 trên thế giới), thi hành kỉ luật giáo sư Martin Leon, một chuyên gia tim mạch nổi tiếng của Mĩ, vì ông tiếp chuyện với giới truyền thông về một nghiên cứu của ông trong khi nghiên cứu đó chưa được NEJM công bố chính thức trên mặt báo. 

Câu chuyện Avandia bên Mĩ …

Mới đây, một trường hợp khác xảy ra cũng thu hút chú ý của công chúng và giới truyền thông liên quan đến thuốc Avandia, một thuốc được dùng phổ biến điều trị bệnh đái tháo đường.  Ngày 21/5/2007 tập san NEJM công bố một phân tích tổng hợp của hai tác giả Steve Nissem và Kathy Wolski (Trung tâm y khoa Cleveland, Ohio, Mĩ) cho thấy bệnh nhân đái tháo đường được điều trị bằng thuốc rosiglitazone (Avandia) có nguy cơ mắc bệnh nhồi máu cơ tim cao hơn bệnh nhân nhóm đối chứng (placebo) đến 43%, và nguy cơ tử vong vì bệnh tim mạch tăng 64%. 

Bài báo của Nissen và Wolski gây ra nhiều tranh cãi gay gắt trong giới chuyên môn về phương pháp phân tích, về cách tiếp cận vấn đề, và cách diễn giải số liệu.  Người viết bài này cũng có bình luận về phương pháp nghiên cứu của hai tác giả.  Dù công trình nghiên cứu bị chỉ trích nhiều, nhưng Cục quản lí thuốc và thực phẩm Mĩ (FDA) ra lệnh cho công ti sản xuất thuốc GlaxoSmithKline phải thêm phần cảnh báo trên hộp thuốc về khả năng thuốc có thể làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim.

Sau khi NEJM công bố công trình nghiên cứu với kết quả bất lợi cho thuốc Avandia, thu nhập của công ti từ thuốc Avandia giảm gần 40% trong vòng 3 tháng!  Chẳng những thế, giá cổ phiếu của GlaxoSmithKline trên thị trường chứng khoáng cũng giảm 13%!  

Nhưng sự việc không dừng ở đó, vì tuần qua có một tiết lộ liên quan đến vấn đề đạo đức khoa học.  Trước khi NEJM công bố bài báo của tác giả Nissen và Wolski, theo thông lệ, ban biên tập NEJM nhờ 3 chuyên gia bình duyệt.  Một trong 3 chuyên gia đó là giáo sư Steven Haffner thuộc Đại học Texas, một chuyên gia bệnh đái tháo đường nổi tiếng của Mĩ.  Giáo sư Haffner là một cố vấn khoa học cho công ti GlaxoSmithKline và từng có kinh nghiệm với thuốc Avandia.  (Cũng cần mở ngoặc ở đây để nói thêm rằng theo qui định chung, hai tác giả Nissen và Wolski không biết những người đồng nghiệp bình duyệt bài báo của mình là ai.)

Thay vì bình duyệt bài báo, giáo sư Haffner gửi (qua fax) bản thảo bài báo cho công ti GlaxoSmithKline.  Đây là một vi phạm đạo đức khoa học nghiêm trọng.  Một trong những qui định đạo đức khoa học là người bình duyệt không có quyền gửi bản thảo bài báo mình duyệt cho bất cứ ai, không được tiết lộ chi tiết của bài báo cho bất cứ ai, và sau khi bình duyệt bản thảo bài báo phải được hủy bỏ. 

Sự việc được báo chí phanh phui, và gây chấn động trong giới y khoa.  Quốc hội Mĩ cũng vào cuộc.  Khi được hỏi tại sao ông tiết lộ cho GlaxoSmithKline, giáo sư Haffner lúng túng không trả lời được.  Ông nói một câu nói trở thành nổi tiếng: “Tại sao tôi gửi đi là một điều bí ẩn.  Tôi thật sự không hiểu nỗi.  Lúc đó tôi cảm thấy không khỏe khoắn trong người.  Đó là một sai lầm về phán đoán” (nguyên văn: Why I sent is a mystery.  I don’t really understand it.  I wasn’t feeling well.  It was a bad judgment.)

Công ti GlaxoSmithKline cho rằng giáo sư Haffner nghi ngờ về phương pháp thống kê của giáo sư Nissen và Wolski, nhưng ông không có khả năng bình duyệt, nên nhờ các chuyên gia trong công ti GlaxoSmithKline giúp đỡ và cho ý kiến.  Tuy nhiên, công ti cho biết họ không trả lời giáo sư Haffner, và do đó, họ không vi phạm đạo đức khoa học. 

Nhưng cũng có người nghi ngờ rằng rất có thể ông muốn báo cho “phe ta” (tức công ti GlaxoSmithKline) biết trước một tin không tốt, để công ti có thì giờ chuẩn bị ứng phó.  Có dấu hiệu cho thấy iáo sư Haffner không “mặn mà” với công trình của Nissen và Wolski.  Sau khi bài báo được NEJM công bố, ông mỉa mai bình luận rằng “Ba cái tập san y khoa lớn ngày nay đã trở thành những tờ báo lá cải kiểu Ăng Lê, chỉ có cái khác là các tập san này chưa in hình phụ nữ phơi bày vú trên trang 3 mà thôi”!

            Vấn đề y đức và mâu thuẫn quyền lợi cũng được nêu lên.  Giáo sư Haffner không dấu diếm rằng là một nhà khoa bảng và chuyên gia, ông từng nói chuyện trong các hội nghị do công ti GlaxoSmithKline tổ chức, và nhận thù lao lớn từ các cuộc nói chuyện này, nhưng ông không chịu tiết lộ “lớn” là bao nhiêu.  Đồng nghiệp của giáo sư Haffner hỏi ông làm việc cho trường đại học, vì bệnh nhân, hay làm việc cho công ti thuốc.  Trong bối cảnh quan hệ phức tạp giữa các giáo sư và công ti thuốc ngày nay, câu chuyện Avandia được quá nhiều báo chí phân tích và phanh phui, gieo vào công chúng một nghi ngờ về tính khách quan của các vị giáo sư mang danh nhà khoa học. 

Sự việc còn trong vòng điều tra.  Tập san NEJM sẽ mở cuộc điều tra.  Đại học Texas cũng sẽ điều tra.  Dù kết quả điều tra ra sao, uy tín của giáo sư Haffner chắc chắn sẽ bị tổn hại.  Trong tương lai, ông sẽ không được công bố nghiên cứu và không được bình duyệt cho tập san NEJM nữa.  Ngoài ra, khoa học lại có thêm một bài học giáo khoa căn bản về cách không nên làm trong hoạt động khoa học. 

Đến chuyện tế bào gốc ở nước ta

            Câu chuyện về qui trình làm việc trong khoa học vừa nêu trên có ý nghĩa và liên quan với một câu chuyện làm khoa học ở nước ta.  Như đề cập trong phần đầu, Qui ước Ingelfinger (nhà khoa học chỉ được quyền công bố trước công chúng sau khi đã công bố trên các diễn đàn khoa học và đã qua phản biện) đã được giới khoa học quốc tế chấp nhận và tuân thủ rất nghiêm chỉnh.  Tuy nhiên ở nước ta, có quá nhiều nghiên cứu chưa bao giờ (và nhiều trường hợp, không bao giờ) được công bố trên một tập san khoa học nào, thậm chí chưa qua bình duyệt hay phản biện bởi các đồng nghiệp, nhưng nhà khoa học đã tiếp xúc với báo chí và tuyên bố nhiều điều có thể gây ra hiểu lầm đáng tiếc.

Tiêu biểu cho trường hợp truyền thông đại chúng đi trước diễn đàn khoa học là câu chuyện nghiên cứu tế bào mầm.  Vài tuần qua, báo chí nước ta đưa tin việc các nhà khoa học Việt Nam thành công trong việc ứng dụng kĩ thuật tế bào gốc để điều trị một bệnh nhân bị hỏng mắt (hội chứng Stevens – Johnson).  Đây là một tin vui, vì nếu thật sự thành công, công trình này có thể là một điểm son cho khoa học Việt Nam vốn vẫn còn trong giai đoạn non trẻ, nhất là đối với công nghệ sinh học.

            Tuy nhiên, một số chuyên gia trong hội đồng nghiệm thu tỏ ra e ngại không biết kết quả đạt được của công trình nghiên cứu là một thành công hay là một sự hiểu lầm do thiếu thông tin.  Kể ra, đây là một nghịch lí, bởi vì thành viên nghiệm thu đáng lẽ phải là các chuyên gia có kinh nghiệm.  Càng khó hiểu hơn, vì trước khi công trình được duyệt cấp kinh phí thì hẳn đã qua bình duyệt bởi các chuyên gia có kinh nghiệm!  Như vậy, có thể nói quá trình bình duyệt đề cương nghiên cứu chưa được hoàn chỉnh.

Có thành viên trong hội đồng nghiệm thu đề nghị các chuyên gia nước ngoài bình duyệt và phản biện.  Điều này có thể thực hiện được, vì trong thực tế, phần lớn các đề cương nghiên cứu đều được bình duyệt và phản biện qua mạng.  Nhưng trong trường hợp này, tôi e rằng các chuyên gia nước ngoài cũng rất khó mà kiểm chứng các thông tin và thành quả của công trình nghiên cứu, bởi vì các tác giả chưa công bố kết quả nghiên cứu trên một tập san chuyên ngành nào!  Đây là một trường hợp có lẽ không bất thường ở nước ta, nhưng rất bất thường đối với giới khoa học quốc tế. 

Và bài học thương hiệu

            Trong vài năm gần đây, các nhà quản lí khoa học đã nhận ra rằng nghiên cứu khoa học ở nước ta chưa đem lại những thành quả tương xứng so với số tiền do Nhà nước đầu tư.  Một trong những lí do là do hoạt động khoa học ở nước ta chưa đạt được những chuẩn mực quốc tế.  Một chuẩn mực trong hoạt động khoa học là phải công bố kết quả nghiên cứu trên các diễn đàn khoa học quốc tế (gọi tắt là “công bố quốc tế”).  Hai chữ “diễn đàn” ở đây bao gồm các tập san khoa học có uy tín và các hội nghị khoa học quốc tế. 

Công bố quốc tế là một bước tất yếu trong nghiên cứu khoa học.  Một công trình nghiên cứu khoa học không thể xem là kết thúc nếu công trình đó chưa được báo cáo trên các diễn đàn khoa học, nơi đó có những chuyên gia và đồng nghiệp có khả năng đánh giá công trình khoa học.  Nếu kết quả chưa qua bình duyệt và phản biện, công chúng không thể biết công trình đó có đạt các chuẩn mực khoa học hay không.   

            Nhưng rất tiếc là cho đến nay, một bộ phận lớn giới khoa học trong nước vẫn chưa có hay chưa tạo nên một văn hóa “công bố quốc tế”.  Do đó, đề nghị của các chuyên gia trong hội đồng phản biện là nên công bố kết quả của công trình nghiên cứu tế bào gốc là hoàn toàn hợp lí.  Nhưng tôi e rằng vấn đề không đơn giản như thế, vì trong khoa học, nếu không có những chuyên gia có tiếng (tức từng có công bố quốc tế) đứng tên tác giả thì rất khó mà công bố một công trình như nghiên cứu tế bào mầm từ Việt Nam.  Lí do đơn giản là chúng ta chưa tạo được một “thương hiệu” khoa học trong ngành này, nên giới khoa học quốc tế vẫn còn dè dặt khi bình duyệt một công trình nghiên cứu từ nước ta. 

Xin nhắc lại một câu chuyện [chẳng mấy hay ho] rằng khi giáo sư Woo Suk Hwang (Hàn Quốc) muốn công bố công trình nghiên cứu tế bào mầm, vì tự biết mình chưa có “thương hiệu” rất khó có thể công bố bài báo, nên ông phải nhờ đến một chuyên gia người Mĩ là giáo sư Gerald Schatten đứng tên tác giả.  Trong khoa học, hiện tượng này được gọi là “gift authorship” (quà tác gia).  Khi công trình nghiên cứu bị các đồng nghiệp tiết lộ là một sự ngụy tạo thì giáo sư Schatten cũng bị vạ lây, nhưng ông cố “chạy tội” nói rằng ông chẳng dính dáng gì trong công trình nghiên cứu, ngoài vai trò biên tập tiếng Anh!  Qua bài học Woo Suk Hwang và Gerard Schatten, ngày nay rất ít ai dám đứng tên bảo trợ cho một công trình nghiên cứu mà không biết tác giả là ai và vị thế khoa học ra sao. 

            Ngày nay, có thể nói rằng nghiên cứu khoa học cũng giống như một doanh nghiệp nhỏ về tri thức.  Trong doanh nghiệp này, giám đốc là người đứng đầu một nhóm nghiên cứu; nhân viên viên là nghiên cứu sinh và nhà nghiên cứu; và sản phẩm là thành tựu nghiên cứu, bao gồm thông tin khoa học, bài báo khoa học, và bằng sáng chế.  Cũng như doanh nghiệp cần có vốn và thu nhập, nhóm nghiên cứu khoa học cũng cần có tài trợ và phải thường xuyên sản xuất ra sản phẩm.  Nếu không sản suất ra sản phẩm hay dịch vụ thì doanh nghiệp nên đóng cửa.

Nếu doanh nghiệp cần phải xây dựng một thương hiệu đề tồn tại trong thương trường, thì nhóm nghiên cứu khoa học cũng cần phải tạo cho mình một vị trí hay một “thương hiệu” trong trường khoa học quốc tế.  Nếu doanh nghiệp tạo thương hiệu bằng sản phẩm có chất lượng cao và uy tín của người giám đốc, thì nhóm nghiên cứu khoa học cũng phải có những công trình nghiên cứu có ảnh hưởng lớn và người đứng đầu nhóm nghiên cứu phải có uy danh.  Ngoài ra, giám đốc doanh nghiệp là một người chẳng những quán triệt về qui trình sản xuất và buôn bán mà còn phải giỏi về quản lí tài chính; tương tự, người đứng đầu nhóm nghiên cứu chẳng những nắm vững chuyên môn, mà còn phải là một nhà quản lí công trình giỏi.  Nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp ngày nay có rất nhiều điểm tương đồng.

            Nghiên cứu khoa học Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực công nghệ sinh học và di truyền học, cần thời gian để gầy dựng một thương hiệu trên trường khoa học quốc tế qua những công trình nghiên cứu có chất lượng cao và được đồng nghiệp quốc tế công nhận.  Muốn như thế, hoạt động nghiên cứu khoa học không nên làm theo kiểu “đánh du kích” hay “đi tắt đón đầu”, mà phải tuân theo các chuẩn mực mà cộng đồng khoa học chấp nhận, kể cả việc công bố quốc tế, qua quá trình phản biện, trước khi công bố trên hệ thống truyền thông đại chúng.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn