NGUYỄN VĂN TUẤN

Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai

Nguyễn Văn Tuấn

Thế là chỉ trong vòng 6 tháng các địa phương phía Bắc đã và đang kinh qua 3 lần bộc phát bệnh tả. Có thể qui mô bệnh chưa đến nỗi phải dùng thuật ngữ “dịch tả”, nhưng chúng ta cần định danh bệnh cho đúng với thực tế. Sự phát sinh và tái phát sinh của bệnh tả làm chúng ta phải suy nghĩ đến các biện pháp lâu dài để phòng chống bệnh, và nhất là không để các địa phương phía Bắc nước ta thành một Bangladesh thứ hai. Bài viết này đề nghị một số biện pháp thực tế để phòng chống bệnh tả.

Các bác sĩ đang khẩn trương cấp cứu người bệnh tại BV Truyền nhiễm và Nhiệt đới

Quốc gia (Ảnh VietNamNet)

Định danh bệnh
 

Chỉ trong vòng trên dưới 6 tháng qua bệnh tả bộc phát 3 lần tại một số các địa phương phía Bắc nước ta. Tháng 10 năm ngoái bệnh tả xảy ra và gây ra nhiều chú ý của giới truyền thông và công chúng. Đến cuối năm các giới chức y tế tuyên bố rằng bệnh đã được khống chế, nhưng đến đầu năm 2008, bệnh tả lại bộc phát lần thứ hai! Và, mới đây nhất một “làn sóng” bệnh tả lại bộc phát với hàng trăm bệnh nhân đã nhập viện. Điều này cũng phù hợp với những dự đoán của các chuyên gia rằng bệnh tả sẽ tái phát khi thời tiết bắt đầu ấm lên như hiện nay.

Tuy nhiên điều đáng chú ý lần này là số ca bị nhiễm vi khuẩn tả (V. cholera) cao hơn hai lần trước. Cần nhắc lại rằng năm ngoái tỉ lệ bệnh nhân nhiễm vi khuẩn tả chỉ khoảng 13% (tính trên ~1800 bệnh nhân). Theo thống kê chưa đầy đủ, lần này có đến 70-80% bệnh nhân có kết quả xét nghiệm dương tính nhiễm vi khuẩn tả. Mặc dù các quan chức y tế vẫn sử dụng cụm từ "tiêu chảy cấp nguy hiểm”, nhưng theo tôi, với một tỉ lệ nhiễm khuẩn tả cao như ghi nhận hiện nay, chúng ta nên định danh bệnh cho đúng với thực tế khoa học: “bệnh tả”.

Chúng ta cần định danh bệnh cho đúng để phòng ngừa. Không có gì phải mặc cảm về sự hiện diện của bệnh.

Bệnh tả, lị và thương hàn không phải những bệnh gì mới ở nước ta. Theo y văn quốc tế (do người Pháp ghi lại), năm 1850, một trận dịch tả xảy ra ở miền Trung và Nam nước ta làm cho hơn 2 triệu người mắc bệnh. Năm 1885, một trận dịch lớn khác bộc phát làm cho nhiều lính Pháp mắc bệnh; và trong số lính mắc bệnh tỉ lệ tử vong lên đến 50%! Toàn quyền Paul Doumer cũng từng bị chết vì tiêu chảy, có nghi ngờ là bệnh tả. Từ năm 1910 đến 1930, trung bình mỗi năm có khoảng 5000 đến 30.000 trường hợp dịch tả được ghi nhận. Năm 1961, một nạn dịch tả lớn bộc phát ở Nam Dương, và vi khuẩn V. cholerae O1 lan truyền sang đến miền Nam nước ta làm cho 20.009 người mắc bệnh và 821 người chết. Từ năm 1979 đến 1996, trung bình mỗi năm có khoảng 3000 trường hợp dịch tả được báo cáo (xem Bảng 1). Phần lớn những trường hợp này xảy ra ở miền Trung và Nam, đặc biệt là các tỉnh phía nam Trung phần như Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang, v.v… Các yếu tố nguy cơ được ghi nhận qua các trường hợp này liên quan đến nguồn nước: lượng mưa nhiều, nước uống thiếu vệ sinh hay bị nhiễm trùng, và thiếu cầu tiêu, cầu tiểu.

Bảng 1. Số trường hợp dịch tả ở Việt Nam từ 1979 đến 1996 phân chia theo vùng

Năm

Số trường hợp mắc bệnh theo vùng

Tỉ lệ tử vong (%)

Bắc

Trung

Nam

Cao Nguyên

1979

0

0

2017

0

9,6

1980

1685

0

6501

0

5,2

1981

442

1613

708

0

3,2

1982

0

126

1686

0

3,1

1983

78

3571

3750

0

2,0

1984

0

114

149

0

1,1

1985

381

3271

702

0

1,8

1986

1622

3147

832

0

1,2

1987

1018

218

833

0

1,1

1988

1389

916

224

12

1,6

1989

1

0

129

0

0,0

1990

0

798

1161

0

0,8

1991

3

142

0

0

2,1

1992

12

1849

649

0

0,5

1993

0

2684

776

0

0,3

1994

216

1822

626

1459

1,4

1995

814

3494

1327

453

0,7

1996

149

324

149

8

0,2

Nguồn: Daksgaard A, et al. J Clin Microbiol 1999;37(3):734-741.

Yếu tố nguy cơ

Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để phòng bệnh ở qui mô cộng đồng. Quan sát phản ứng và phương cách đối phó của giới y tế trung ương cho thấy xu hướng “nước đến chân mới nhảy”. Thật ra, phần lớn các biện pháp ứng phó của Bộ Y tế vẫn chỉ giới hạn trong việc tuyên truyền, giáo dục, và kiểm tra vệ sinh. Nhưng sự hữu hiệu của các biện pháp này còn tùy thuộc vào kiến thức và nhận thức của người dân, mà trong thực tế phải nói là chưa được cao.

Chúng ta biết rằng bệnh tả xảy ra là do bệnh nhân nhiễm vi khuẩn tả (V. cholerae). Vi khuẩn này có mặt trong nước và một số thực phẩm. Do đó, muốn phòng bệnh có hiệu quả thì chúng ta phải biết qua các yếu tố nguy cơ của bệnh. Rất tiếc thời gian qua, vì chúng ta thiếu những nghiên cứu dịch tễ học có hệ thống nên vẫn chưa biết rõ yếu tố nguy cơ bệnh tả ở Việt Nam.

Điểm qua y văn và kinh nghiệm từ nước ngoài cung cấp cho chúng ta vài thông tin có ích. Trong thời gian 2001 đến 2004, bệnh dịch tả bộc phát ở tỉnh Sistan-va-Baluchestan, và các nhà nghiên cứu Iran đã làm một việc có ý nghĩa: họ tiến hành nghiên cứu dịch tễ học để hệ thống hóa đặc điểm vùng bị nhiễm vi khuẩn và nhận dạng các yếu tố nguy cơ. Kết quả phân tích trên cho thấy các yếu tố nguy cơ nguy hiểm nhất là không làm vệ sinh tay sau khi đi tiêu/tiểu và trước khi ăn uống. Uống nước sông hay nước giếng cũng là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra, kết quả của họ còn cho thấy đàn ông có nguy cơ mắc bệnh cao hơn phụ nữ đến 3,7 lần.

Bảng 2. Yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tả qua kết quả nghiên cứu ở Iran

Yếu tố nguy cơ

Tỉ số nguy cơ

Uống nước và bia từ các hàng quán bên lề đường

10,2

Không rửa tay sau khi đi tiêu hay đi tiểu

22,1

Không rửa tay trước khi ăn uống

3,6

Ăn thức ăn còn dư lại từ hôm trước

4,0

Uống nước giếng / sông

2,8

Chú thích diễn dịch: Tỉ số nguy cơ liên quan đến một yếu tố nguy cơ có thể diễn dịch qua một ví dụ như sau: những người đi tiêu/tiểu mà không rửa tay có nguy cơ mắc bệnh dịch tả, tính trung bình, cao hơn 22,1 lần so với những người có rửa tay sau khi đi tiêu hay đi tiểu. Nguồn: Izadi S, et al. Cholera outbreak in southeast of iran: routes of transmission in the situation of good primary health care services and poor individual hygienic practices. Jpn J Infect Dis. 2006 Jun;59(3):174-8.

Năm 1997, bệnh dịch tả bộc phát ở vài vùng ở Tanzania. Các nhà nghiên cứu tận dụng “cơ hội” này để tiến hành một nghiên cứu dịch tễ học và kết quả cung cấp cho chúng ta một số yếu tố nguy cơ có vẻ “gần” với những đặc điểm sinh sống ở nước ta (xem Bảng 3). Kết quả trên một lần nữa cho thấy các yếu tố như nguồn nước uống, nhà xí, tắm sông (và ngạc nhiên thay, ăn cá khô) là những yếu tố rất quan trọng có liên quan đến bệnh dịch tả.

Bảng 3. Yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tả qua kết quả nghiên cứu ở Tanzania

Yếu tố nguy cơ

Tỉ số nguy cơ

Dự đám tang gần đây

2,7

Nhà có vách làm bằng bùn

1,7

Trần nhà không có tole hay ngói

2,0

Không có cầu tiêu / nhà xí trong nhà

11,4

Uống nước không đun sôi

1,9

Tắm sông

11,4

Ăn cá khô

13,0

Ăn tôm và tôm khô

3,1

Ăn rau cải sống (không nấu chín)

1,3

Nguồn: Acosta CJ, et al. Cholera outbreak in southern Tanzania: risk factors and patterns of transmission. Emerg Infect Dis. 2001;7(3 Suppl):583-7.

Chiến lược phòng ngừa

Chúng ta cần một chiến lược lâu dài phòng chống bệnh hơn là ứng phó tạm thời. Từ các yếu tố nguy cơ trên và xem qua các kinh nghiệm phòng chống bệnh từ các nước khác chúng ta có thể điểm qua một số biện pháp hữu hiệu như sau:

Thứ nhất là vệ sinh và an toàn thực phẩm. Như trình bày trong hai bảng phân tích các yếu tố nguy cơ trên, bệnh tả và tiêu chảy có liên quan chặt chẽ với nguồn thực phẩm và vệ sinh. Mà, vệ sinh thực phẩm là một vấn đề lớn ở nước ta.

Người nước ngoài mới đến nước ta lần đầu rất ngạc nhiên khi thấy vệ sinh thực phẩm ở nước ta quá lỏng lẻo. Hàng quán vỉa hè bày bán đủ thứ thức ăn mặc cho phơi nhiễm bởi bụi bậm và khói xe. Người dân xì xụp ăn uống, và khi xong thì vô tư vứt rác ra lề đường, và người “chủ quán” cũng vô tư vứt thức ăn thừa ra lề đường. Nước rửa chén đĩa được “tái sinh” không biết bao nhiêu lần.

Đó là những cảnh cực kì hiếm thấy ở các nước mà dịch tả không còn là vấn đề y tế nữa. Do đó, biện pháp hàng đầu và số 1 trong việc phòng chống bệnh tả (và nhiều bệnh truyền nhiễm khác) phải là kiểm tra vệ sinh và an toàn thực phẩm. Thật ra, chúng ta có những qui định về vệ sinh thực phẩm, nhưng ít khi nào được áp dụng một cách nghiêm chỉnh. Đã đến lúc kĩ nghệ thực phẩm, kể cả giới buôn bán vỉa hè và các nhà hàng, có hệ thống tự kiểm tra vệ sinh thực phẩm.

Tuy nhiên, một trong những khó khăn hiện nay trong việc kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm là sự chồng chéo về chức năng giữa các cơ quan. Thật là ngạc nhiên khi công an, hải quan, quản lí thị trường, y tế, v.v… đều có chức năng kiểm tra vệ sinh thực phẩm. Do đó, khi bệnh tả xảy ra, các giới chức y tế chỉ giới hạn trong tuyên truyền mà không có hành động thực tế để phòng chống bệnh về lâu về dài, bởi vì có quá nhiều cơ quan dính dáng mà chẳng cơ quan nào chịu trách nhiệm! Và khi kiểm tra ra tay thì sự cố lại xảy ra vì phương pháp làm việc không minh bạch dẫn đến phản đối của nhà hàng. Thật ra, ngay cả chức năng phát ngôn viên mà trong Bộ Y tế người vẫn có sự đùn đẩy cho nhau!

Thứ hai là làm sạch nguồn nước. Theo một nghiên cứu gần đây có hơn 80% nông dân phía Bắc không có nguồn nước sạch. Nghiên cứu từ Iran và Tanzania (những nơi từng kinh qua nạn dịch tả gần đây) cho thấy người người tắm sông nước bẩn và uống nước bị nhiễm trùng có nguy cơ mắc bệnh tả cao gấp 10 lần những người không tắm sông và sử dụng nước không bị nhiễm trùng. Dựa vào kết quả này, có thể nói rằng nếu can thiệp làm sạch nguồn nước uống và nước cho sinh hoạt hàng ngày sẽ ngăn ngừa được ít nhất là 90% bệnh tả. Làm sạch nguồn nước ở đây bao gồm việc đun sôi trước khi uống và tẩy trùng bằng chlorine hay các hóa chất khử trùng. Đối với các nông dân không có nước máy, nên khuyến khích sử dụng chlorine để làm sạch nước. Kinh nghiệm ở các nước vùng châu Mĩ Latin trong thập niên 1980 và 1990 cho thấy chỉ đơn giản triển khai phong trào sử dụng chlorine làm sạch nước trong từng hộ có thể giảm sự phát sinh của bệnh tả đến 80%. Chi phí sử dụng chlorine theo tính toán của các chuyên gia y tế Mĩ chỉ tốn khoảng 2 USD mỗi hộ hàng năm. Do đó, làm sạch nguồn nước uống và sinh hoạt có thể đem lại hiệu quả y tế và kinh tế rất cao.

Thứ ba là vấn đề vệ sinh cá nhân. Ăn uống hay đi vệ sinh không rửa tay là một yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tả, vì tỉ số nguy cơ lên đến 22! Thật vậy, phần lớn các yếu tố nguy cơ của bệnh tả thường liên quan đến tình trạng kinh tế và thậm chí văn hóa sinh hoạt của người dân. Phải thú nhận một thực tế là rất nhiều người chưa có thói quen rửa tay trước bữa ăn hay sau khi đi tiêu / tiểu, và cũng chưa xem nhà xí là một phương tiện phòng chống bệnh tật. Rất nhiều nhà hàng, nhà ở được xây dựng mới toanh và hoành tráng, nhưng cầu xí thì rất ư là tồi tệ. Ở vùng quê, nhiều nhà không có cầu tiêu, và nhiều người vẫn còn đi tiêu ở trên sông, ruộng, ao, hồ, và gây ô nhiễm nguồn nước. Do đó, có lẽ chúng ta không ngạc nhiên khi thấy E. coli tìm thấy trong rau cải và nước. Chúng ta cần phát động một phong trào xây dựng nhà xí ở thôn quê và xây dựng nhiều nhà xí công cộng ở thành phố. Phải khuyến khích, nếu cần dùng ngân sách y tế hỗ trợ cho người dân nghèo, để mỗi nhà đều có một nhà xí tốt. Chúng ta đã có nhà khoa học nghiên cứu về mô hình nhà vệ sinh thích hợp cho nông thôn. Có lẽ Nhà nước cần xem mô hình của tác giả Lê Anh Tuấn trình bày để tiến tới một chiến dịch xây nhà vệ sinh cho dân.

Nhưng nhà vệ sinh đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc phòng chống bệnh. Hơn một thế kỉ trước đây, nhà vệ sinh giúp thực hiện một cuộc cách mạng về y tế công cộng ở New York, London và Paris. Ngày nay, các quan chức y tế Liên hiệp quốc mới nhận thức rằng cầu xí là một phương tiện phòng chống bệnh rất quan trọng ở các nước đang phát triển.

Thứ tư là vắcxin. Hiện nay, chúng ta có thể sản xuất vắcxin với hiệu quả khá cao để phòng ngừa bệnh tả. Theo kết quả thử nghiệm tại Huế trên gần 52.000 người được công bố trên Tập san Lancet năm 1997, hai liều lượng vắcxin WB cho uống cách nhau từ 10-14 ngày, hiệu quả là 66% (ở trẻ em hiệu quả là 68%) sau 6-8 tháng theo dõi. Ngoài ra, nghiên cứu hiệu quả của vắcxin ở Nam Dương trong đợt sóng thần Tsunami vào năm 2005 cho thấy hiệu quả của vắc-xin WC/rBS và CVD103 Hg-R lên đến 90% trong vòng 6 tháng. Một số nghiên cứu gần đây ở Bangladesh và Peru cho thấy vắc-xin WC/rBS có hiệu quả chống dịch tả lên đến 85-90% trong vòng 6 tháng cho tất cả đối tượng bất kể độ tuổi nào.

Nói tóm lại, bằng chứng nghiên cứu khoa học trong 10 năm qua cho thấy hiệu quả trung bình của vắcxin phòng chống bệnh tả dao động trong khoảng 66% đến 90%. Theo tôi đó là một hiệu quả rất đáng khích lệ. Thật vậy, một nghiên cứu mới công bố vào tháng 11 năm ngoái cho thấy rằng chỉ cần 50-70% dân số trong những vùng bị dịch tả (hay có nguy cơ cao, như các tỉnh phía Bắc hiện nay) uống vắcxin 2 lần một năm, và với hiệu quả như vừa mô tả, số ca bệnh tả có thể giảm đến 90%. Do đó, các bằng chứng khoa học trên chỉ ra rằng cần phải có một chiến dịch cho uống vắcxin 2 lần / năm để phòng ngừa sự bộc phát của bệnh tả trong tương lai.

Đừng để Việt Nam thành Bangladesh!

Bệnh tả cho đến nay vẫn là một vấn đề y tế công cộng có qui mô toàn cầu, và cũng là cũng một chỉ tiêu để đo lường sự phát triển xã hội. Hàng năm, có khoảng 5-7 triệu người trên thế giới mắc bệnh tả, và số tử vong vì bệnh này khoảng 100.000 người. Chỉ riêng năm 2005, Tổ chức y tế thế giới (WHO) ghi nhận gần 132.000 trường hợp bệnh dịch tả và 2272 trường hợp tử vong (tỉ lệ tử vong 1,72%) trên thế giới; trong đó, 98% trường hợp xảy ra ở Phi châu.

Nói đến bệnh tả người ta nghĩ ngay đến Bangladesh (150 triệu dân), nơi mà bệnh tả bộc phát liên tục từ năm này sang năm khác, do nguồn nước ở đây bị ô nhiễm nặng nề và do vệ sinh thực phẩm vẫn còn chưa đảm bảo. Bất cứ du khách nào từ phương Tây đi du lịch ở Bangladesh đều được cảnh báo về tình trạng nguồn nước, về nguy cơ mắc bệnh tả và bệnh tiêu chảy.

Trong bối cảnh bệnh tả “đến hẹn lại lên” như hiện nay, tôi nghĩ nước ta có nguy cơ thành một Bangladesh thứ hai, nếu chúng ta không quyết liệt trong chiến dịch phòng chống bệnh tả như vệ sinh thực phẩm, làm sạch nguồn nước, và nhà vệ sinh. Có lẽ trong chúng ta không ai muốn thấy một viễn cảnh như thế vì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ngành du lịch và uy tín nước ta trên trường quốc tế.

Đây là thời điểm lí tưởng để Bộ Y tế cần phát động một chiến dịch làm sạch nguồn nước và xây nhà vệ sinh trên toàn quốc để một mặt nâng cao nhận thức của cộng đồng về bệnh dịch tả và mặt khác cải thiện tình trạng vệ sinh ở nước. Đây là một sự đầu tư y tế công cộng mà chúng ta chắc chắn sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho xã hội và kinh tế.

  • TS. Nguyễn Văn Tuấn (ĐH Garvan, Sydney, Australia)


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn