NGUYỄN VĂN TUẤN

Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì

Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nay (Ngày 12/2/2010), tập san Obesity (trước đây là Obesity Research) công bố một nghiên cứu của một nhóm nghiên cứu Việt – Mĩ – Úc về béo phì. Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan ra một thông cáo báo chí (press release) dưới đây.  Đây là một nhóm nghiên cứu từ 3 nước: phía Việt Nam có Bs Hồ Phạm Thục Lan và Bs Lại Quốc Thái, thuộc Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch và Bệnh viện 115; phía Mĩ có Gs Elizabeth Barrett-Connor; và phía Úc có Ts Nguyễn Đình Nguyên và tôi.  Câu chuyện về công trình của chúng tôi hơi dài, nhưng tôi sẽ viết ngắn để các bạn nắm được vấn đề và thấy tầm quan trọng của nghiên cứu chúng tôi. (Quan trọng thật, chứ không quảng cáo đâu).

Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán béo phì là lượng mỡ trong cơ thể.  Trọng lượng cơ thể gồm 2 thành phần chính: lượng nạc (lean mass) và lượng mỡ (fat mass).  Béo phì được định nghĩa là lượng mỡ trong người tăng cao đến mức có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe.  Do đó, tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán béo phì là lượng mỡ trong cơ thể.  Lượng mỡ rất khó đo lường, vì cần phải có dụng cụ phức tạp hay máy móc đắt tiền.  Thiết bị chuẩn để đo lượng mỡ trong người là máy DXA (dual energy X-ray absorptiometry), nhưng máy DXA khá đắt tiền nên chỉ có những bệnh viện lớn.

Trong điều kiện khó đo lượng mỡ, giới y khoa dựa vào trọng lượng và chiều cao để chẩn đoán béo phì.  Thay vì dùng máy DXA, người ta phát triển ra một chỉ số đơn giản hơn, có nguồn gốc từ thế kỉ 19. Chỉ số này gọi là body mass index (BMI) hay chỉ số Quetelet (nhà toán học người Bỉ phát triển cách tính này) được tính toán bằng cách lấy trọng lượng chia cho chiều cao bình phương. Trọng lượng tính bằng đơn vị kílô, và chiều cao tính bằng mét. BMI có tương quan cao với lượng mỡ. Người có BMI cao cũng thường có lượng mỡ cao (nhưng không phải ai cũng vậy) (1).

 

Tổ chức Y tế Thế giới đề nghị những ai có BMI bằng hoặc cao hơn 30 thì chẩn đoán là béo phì.  Nhưng đó là chuẩn cho người châu Âu (da trắng), và chưa chắc áp dụng cho người châu Á.

Giả định về mối liên hệ giữa lượng mỡ và BMI.  Đã từ lâu (trên 15 năm qua), người ta giả định rằng nếu hai người châu Á và châu Âu (da trắng) có cùng body mass index (BMI), thì người châu Á có nhiều lượng mỡ hơn. Dù bằng chứng rất “mỏng”, nhưng hình như ai cũng chấp nhận giả định này. Chấp nhận giả định này có nghĩa là tiêu chuẩn BMI chẩn đoán béo phì cho người châu Á phải thấp hơn người châu Âu. Thấp hơn bao nhiêu thì chưa ai biết, nhưng đã có nhiều người đề nghị rằng đối với châu Á, BMI cao hơn hay bằng 25 thì nên chẩn đoán là béo phì.  Đề nghị này được các nước Á châu hoan nghênh.

Nhưng chúng tôi nghĩ khác. Chúng tôi cho rằng giả định trên sai. Thật vậy, khi xem xét qua y văn và đọc kĩ bài báo năm 1994 (bài báo mà họ cho rằng người châu Á có tỉ lệ lượng mỡ cao hơn người châu Âu), chúng tôi thấy chẳng có khác nhau gì đáng kể giữa người châu Á và người Mĩ gốc Âu châu!

 

Do đó, giả thuyết chúng tôi đặt ra là không có khác biệt về tỉ lệ mỡ giữa người châu Á và châu Âu nếu họ có cùng BMI. Để kiểm định giả thuyết này, chúng tôi phải phân tích lượng mỡ của một nhóm phụ nữ ở Việt Nam và ở Mĩ. Sau đó, chúng tôi “bắt cặp” một phụ nữ Việt Nam và một phụ nữ Mĩ (da trắng) sao cho mỗi cặp có cùng độ tuổi và cùng BMI. Kế đến chúng tôi so sánh tỉ lệ mỡ giữa hai nhóm Việt Nam và Mĩ.

 

Kết quả cho thấy hai nhóm này có tỉ lệ mỡ tương đương nhau (Việt Nam: 35.6%, Mĩ: 35.8%). Để chắc ăn, chúng tôi còn làm nhiều phân tích khác nữa, và kết quả vẫn không thay đổi. Tức là, tỉ lệ mỡ ở phụ nữ Việt Nam tương đương với tỉ lệ mỡ ở phụ nữ Mĩ gốc châu Âu.

Kết quả này cho thấy giả định mà giới y khoa quốc tế và WHO dựa vào trong vòng 15 năm qua là sai. Bởi vì giả định sai, cho nên ngưỡng BMI dùng để chẩn đoán béo phì cho người châu Á (BMI>25) cũng sai.

 

Công trình của chúng tôi là công trình hiếm và lần đầu tiên có một so sánh trực tiếp giữa hai sắc dân, với công nghệ DXA. (Trước đây, toàn là những so sánh gián tiếp và không sử dụng DXA). Do đó, ý nghĩa của nghiên cứu này quan trọng ở chỗ là nó làm cho người ta phải quay lại từ đầu để xác định ngưỡng BMI cho chẩn đoán béo phì cho cả Á châu.

Cho đến nay, chưa ai biết ngưỡng BMI hay lượng mỡ đó là bao nhiêu để chẩn đoán béo phì cho người châu Á, vì chưa có nghiên cứu dài hạn. Chúng ta cần phải nghiên cứu hàng ngàn người và theo dõi từ 5 đến 10 năm để biết ở lượng mỡ hay BMI bao nhiêu để có thể xác định là nguy hiểm đến tính mạng. Ở Á châu, chưa có những nghiên cứu như thế.  

Đương nhiên, trong hoạt động khoa học, một kết quả mang tính thách thức thường sẽ bị xâm soi rất kĩ. Nay mai đây, sẽ có rất nhiều người trên thế giới tìm mọi cách để phản bác nghiên cứu của chúng tôi. Nhưng tôi nghĩ rất khó phản bác kết quả này, vì chúng tôi đã làm rất cẩn thận với tất cả những phân tích từ đơn giản đến tinh vi có thể làm được. Chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần để “chiến đấu”.

Nhưng làm cái gì cũng phải nghĩ đến Việt Nam. Trong tương lai gần hay trung hạn thì chúng ta vẫn phải sử dụng BMI để chẩn đoán béo phì, vậy thì câu hỏi đặt ra là: chuẩn BMI để chẩn đoán béo phì cho người Á châu hay cụ thể là người Việt Nam là bao nhiêu? Tôi chắc chắn rằng không phải là 25 như đa số các nước châu Á đang áp dụng hiện nay. Nhưng tôi cũng không có câu trả lời chính xác, vì chưa có nghiên cứu dài hạn (như nói trên). Tuy nhiên, qua xem xét y văn về mối tương quan giữa BMI và tử vong ở Trung Quốc và Hàn Quốc, tôi cho rằng chúng ta có thể sử dụng chuẩn BMI>30 để chẩn đoán béo phì cho người Việt Nam.

NVT

TB: (1) Cần nói thêm rằng, chẩn đoán béo phì dựa vào BMI thiếu chính xác. Bởi vì cái tử số của công thức BMI là trọng lượng cơ thể, mà trọng lượng cơ thể bao gồm 2 phần chính: nạc và mỡ. Do đó, một người có nhiều nạc và ít mỡ (như lực sĩ hay cầu thủ đá banh chẳng hạn) vẫn bị xem là béo phì nếu họ có trọng lượng cao, và điều này rất … vô duyên. Thật vậy, nếu dựa vào BMI > 30, thì ông thống đốc California Arnold Schwarzenegger, hay tài tử Brad Pitt là béo phì!

Đây là một công trình thú vị về thời điểm. Sau vài tháng bình duyệt, và phản hồi qua lại, chúng tôi nhận được thư báo tin tập san chấp nhận cho công bố là ngày 30/12/2009, tức là trước Tết Tây 2 ngày. Ngày bài báo được công bố online là ngày hôm nay, tức là trước Tết Canh Dần 2 ngày. Tôi xem đây là một món quà Tết ngọt ngào. Món quà này cũng là quà cho các bạn đọc trang blog này nữa. Vậy, mến chúc các bạn một năm Canh Dần an khang và nhiều may mắn.

===

http://www.garvan.org.au/news-events/news/raising-the-question-of-obesity-in-asia.html

Raising the question of obesity in Asia

When it comes to obesity, it would seem that it’s very important to define terms, and equally important to ask questions about those terms.

So say Australian, Vietnamese and American scientists who challenge findings published in 1994 which concluded that for a given Body Mass Index (BMI), a measure of body fat based on weight and height, Asians have a higher percentage of body fat than Caucasians.

The 1994 study drew conclusions from measurements of percentage body fat and BMI of Chinese and Caucasian women living in New York. The study, though small, has been widely cited since and continues to influence the opinions of obesity experts worldwide.

Professor Tuan Nguyen, from Sydney’s Garvan Institute of Medical Research, took a close look at the original paper, saw that fat mass did not vary much between the two populations of women, and hypothesised that Asians and Caucasians have a similar percentage of body fat for a given body size.

To test the hypothesis, Professor Nguyen collaborated with Vietnamese and American colleagues to undertake a comparative study. In association with Dr Ho-Pham Thuc Lan from the Pham Ngoc Thach Medical University in Ho Chi Minh City, Nguyen had already measured the BMI and body fat percentage of 210 Vietnamese women for another study.

As it happened, Professor Elizabeth Barrett-Connor, from the University of California at San Diego, had collected similar data, using identical equipment, from over 400 American women of European descent.

The researchers agreed to share data, and to match the Vietnamese and American groups by age and BMI. When they compared the percentage of body fat in the women, they found it to be identical. Their findings are published in Obesity, now online.

“For years, it has been argued that Asian women with a BMI over 25 should be considered obese,” said Professor Nguyen.

“That would make roughly 40% of the women in Vietnam obese, which is patently absurd. If instead, you make the BMI threshold 30, as it is in the West, the obesity figure drops to less than 5%”

Obesity is defined as a condition where the amount of body fat is harmful to wellbeing and health - fat mass being the critical factor. The gold standard method for measuring fat mass involves using a relatively expensive densitometer, known as a DXA (dual-energy X-ray absorptionmetry) machine.

As DXA is not available in most healthcare settings, BMI is used instead. BMI is at best an approximate, and sometimes misleading, measurement because it does not distinguish between fat mass, muscle mass, bone and vital organs. Some athletes, for example, could be classified as obese because they have a high muscle mass that contributes to their high BMI.

Professor Nguyen believes that a re-evaluation of optimal BMI thresholds in Asia at least provides a useful new starting point from which to proceed.

“We still do not know what percent body fat should be used to define obesity in Asian populations because we still do not have a long term study,” he said.

“A few recent studies in Asian populations appear to suggest that the risk of mortality increases when BMI is greater than 30, so there seems to be no need for lower BMI cut-off points in Asians”.

“A few years ago, the World Health Organisation attempted to define an appropriate BMI cut-off level for Asians, but couldn’t because there wasn’t adequate data.”

“We believe our study draws a new line in the sand. We are saying that we don’t believe that 25 is a realistic threshold, and that 30 is probably closer to the mark. Now we must test that threshold in Asian populations over the coming decades.”

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn