A:hover {color: red; font-weight: bold}

CẦN CHUẨN BỊ GÌ CHO TRIỂN KHAI HỆ THỐNG PHẦN MỀM?

 

Khi trang bị hệ thống phần mềm thì mỗi người sẽ có yều cầu tính năng sữ dụng khác nhau tùy vị trí công việc.

Tóm tắt

Các vấn đề khi triển khai phần mềm QLBV lần đầu tiên

Việc trang bị một hệ thống CNTT QLBV là một cuộc cách mạng lớn trong hoạt động bệnh viện, đụng đến hoạt động của tất cả mọi người trong bệnh viện từ giám đốc đến y tá. Sự thay đổi đó sẽ gặp phải nhiều khó khăn to lớn.

Các vấn đề khi thay mới phần mềm QLBV

Sau một thời gian trải nghiệm phần mềm QLBV, phát sinh những vấn đề BV cần mà phần mềm không đáp ứng được, từ đó BV có nhu cầu thay đổi phần mềm mới. Quá trình thay đổi sẽ gặp những thuận lợi và khó khăn cần biết.

Thuận lợi:

Khó khăn:

Nhằm khắc phục các khó khăn này, cần thiết phải có sự đồng cảm giữa các thành viên trong bệnh viện về sự thay đổi. Các buổi tiếp xúc giữa nhà cung cấp phần mềm và người dùng bệnh viện là cần thiết.

Tóm tắt

Khi trang bị phần mềm quản lý bệnh viện, hầu như mọi hoạt động của bệnh viện sẽ thay đổi theo.

Nhiều bệnh viện khi trang bị phần mềm QLBV đã vấp phải sự phản kháng của nhân viên là bác sĩ, y tá vì bắt họ phải thay đổi thói quen làm việc rất nhiều. Tuy nhiên, sau một thời gian làm quen với phong cách mới, nhân viên bệnh viện cảm thấy giá trị hữu dụng của phần mềm trong công việc của họ và thậm chí sẽ không làm việc nếu không có phần mềm.

Tóm tắt

Việc triển khai phần mềm quản lý bệnh viện có thành công hay không, ngoài yếu tố có được phần mềm hoàn chỉnh còn phụ thuộc vào người sử dụng. Nhiều vấn đề xảy ra do người sử dụng sai cách.

Việc triển khai phần mềm đòi hỏi phải có sẵn dữ liệu ban đầu và quy trình hoạt động. Các dữ liệu phải được khai báo đầy đủ chi tiết trong các tập tin excel để thuận tiện cho việc nạp vào hệ thống. Quy trình hoạt động cũng phải được thảo luận chặt chẽ để nhà cung cấp phần mềm (seller) cấu hình theo thực tế.

Khi đến thời gian triển khai, seller đã cài đặt xong phần mềm và chuẩn bị hướng dẫn sử dụng nhưng vì bệnh viện không cung cấp số liệu ban đầu như danh mục dịch vụ, danh mục thuốc, danh mục người dùng… và khôn đưa ra quy trình thì sẽ làm kéo dài thời gian triển khai. Việc thay đổi danh mục và thay đổi quy trình sẽ dẫn đến các rắc rối cho những ngày đầu triển khai đồng thời tạo ra một số lỗi dữ liệu. Hậu quả của tất cả mọi sự chậm trễ và số liệu sai sẽ đều bị quy cho seller.

Do đó, với một seller có kinh nghiệm thì sẽ bắt buộc bệnh viện cung cấp đầy đủ các bảng danh mục và quy trình trước khi bắt tay vào triển khai mặc dù thời gian cam kết triển khai đã quá hạn.

Sau khi triển khai, bệnh viện sẽ khám phá tính năng hệ thống và xem xét các biểu mẫu thống kê. Khi này, nhiều nhu cầu và sáng kiến mới sẽ bắt đầu phát sinh và bệnh viện sẽ yêu cầu seller cung cấp thêm các biểu mẫu thống kê mới hoặc thêm tính năng mới. Điều này sẽ làm tăng thời gian triển khai, tăng lao động cho lập trình viên, có khi yêu cầu phát sinh là vô tận. Do đó, hợp đồng giữa seller và bệnh viện sẽ phải có điều khoản buộc bệnh viện phải cung cấp tất cả các biểu mẫu thống kê và tính năng cần thiết vào phụ lục hợp đồng. Seller chỉ thực hiện theo những gì đã ghi trong hợp đồng còn những yêu cầu phát sinh sau một thời gian triển khai sẽ trở thành yêu cầu phát sinh có tính phí.

Bệnh viện cẩn hiểu rõ ràng buộc này để đưa ra hết yêu cầu cần thiết trước khi hợp đồng được ký.

Tóm tắt

Việc vận hành một hệ thống phần mềm đòi hỏi phải có các nhân sự tương ứng.

Nhân viên IT là người chịu trách nhiệm duy trì hoạt động mạng, bảo đảm cho mạng được hoạt động thường xuyên, liên tục 24/24. Nếu bệnh viện hoạt động liên tục thì cần phải có tối thiểu 2 nhân viên thay phiên nhau trực gác, xử lý các vấn đề cần thiết xảy ra. Nhân viên IT có thể kiêm nhiệm công tác quản lý hệ thống phần cứng và giao tiếp với nhà cung cấp phần mềm để nêu yêu cầu của bệnh viện. Nhân viên IT có thể nắm tính năng phần mềm để hướng dẫn sử dụng phần mềm cho nhân viên mới. Nhân viên IT giỏi có thể trích xuất dữ liệu từ hệ thống cho bác sĩ phân tích dữ liệu. Một nhân viên IT tốt có thể tư vấn cho lãnh đạo nên đầu tư gì và yêu cầu làm thêm tính năng gì cho phần mềm đáp ứng được hoạt động thực tế của bệnh viện.

Người sử dụng phần mềm: phần lớn là các y tá và bác sĩ làm việc trực tiếp trên máy tính. User cần có kỹ năng gõ chữ tiếng Việt là đủ. Các nhân viên lớn tuổi có thể gặp khó khăn ban đầu khi tiếp xúc với máy tính, nhưng sau một thời gian sẽ quen dần. Nhân viên sử dụng máy tính cần được biết rằng việc sử dụng máy tính trong công việc sẽ mang lại nhiều lợi ích cho chính bản thân họ. Bác sĩ dùng máy tính sẽ kê đơn nhanh, chính xác và in ra đơn thuốc đẹp. Bác sĩ cũng xem được toàn bộ quá trình khám chữa bệnh của bệnh nhân mà bệnh án giấy không giúp được. Y tá nhập liệu thuốc có thể nhờ máy tính lập nhanh một bảng tổng hợp thuốc, chuyển yêu cầu phát thuốc đến các kho thuốc và nhận thuốc về phát cho bệnh nhân một cách tự động. Nhân viên thống kê sẽ rất “khỏe” vì các biểu mẫu thống kê số liệu đã được soạn thảo sẵn.

Người phân tích dữ liệu: Bộ phận kế hoạch tổng hợp từ trước đến nay có chức năng thu thập dữ liệu và làm báo cáo tổng hợp. Tuy nhiên, sau khi trang bị hệ thống phần mềm, các số liệu đã tự động tích hợp thành các báo cáo theo yêu cầu. Công việc cùa phòng KHTH giờ đây không còn là đi thu thập số liệu nữa mà là phân tích số liệu có sẵn trong hệ thống.

2012_BMI1.jpg

Tóm tắt

Liên hệ trước triển khai:

Nếu bệnh viện đã có kiến thức về CNTT y tế, hiểu rõ nhu cầu của mình thì nên lập ra một tài liệu chi tiết các yêu cầu của mình, mời nhà thầu nào đáp ứng được 90% yêu cầu đó để thương thảo thực hiện. Điều quan trọng là phần mềm phải có sẵn các tính năng cần có.

Nếu bệnh viện chưa biết gì về CNTT y tế, chưa hiểu rõ nhu cầu của mình cần gì thì nhất thiết phải mời nhà tư vấn có uy tín. Điều này cực kỳ quan trọng. Nhà tư vấn ở đây không phải là tư vấn thủ tục hành chính hay lập hồ sơ thầu mà là tư vấn chuyên môn CNTT y tế. Nhà tư vấn phải có kiến thức trong 3 lĩnh vực: y tế lâm sàng, y tế quản lý và CNTT. Nhà tư vấn phải hiểu rõ về nhu cầu của bệnh viện và đưa ra các yêu cầu cụ thể phải có của một phần mềm, yêu cầu công ty phần mềm đáp ứng đủ.

Nếu nhà tư vấn đồng thời là nhà cung cấp phần mềm thì hai bên phải có sự hợp đồng chặt chẽ với nhau.

Nhà cung cấp phải hiểu rằng mỗi bệnh viện có nhu cầu đặc trưng, không giống với phần mềm cài cho các bệnh viện khác. Việc chỉnh sửa, thêm tính năng cho phần mềm là cần thiết.

Đối với nhà cung cấp lão luyện, bệnh viện phải nghe lời tư vấn, thay đổi quy trình, thay đổi trật tự bố trí nhân sự, thay đổi cung cách làm việc để khi vận hành hệ thống sẽ đạt hiệu quả cao nhất. Nhiều trường hợp đã áp phần mềm vào bệnh viện rồi nhưng vẫn giữ cách bố trí hay tổ chức như cũ thì sẽ không đạt được hiệu quả mong muốn, thậm chí là gây ra thêm nhiều phiền phức.

Liên hệ sau triển khai:

Việc mua bán phần mềm QLBV giữa nhà cung cấp và bệnh viện không phải là giao dịch mua đứt bán đoạn như mua một chiếc xe ô tô. 

Trong quá trình hoạt động và phát triển, bệnh viện phát sinh những thay đổi thực tế như là mở rộng quy mô bệnh viện, mua thêm thiết bị xét nghiệm mới, tạo thêm dịch vụ mới, thay đổi biểu mẫu báo cáo, thay đổi chính sách y tế và BHYT… đòi hỏi phải nâng cấp, thay đổi tính năng phần mềm thường xuyên. 

Ngoài ra, sau một thời gian hoạt động, dữ liệu phần mềm càng ngày càng phình to gây ra tình trạng trì trệ hệ thống, đòi hỏi phải có giải pháp cắt giảm dữ liệu để cải thiện hoạt động của phần mềm.

Bệnh viện cũng sẽ có nhu cầu khai thác dữ liệu cho thống kê, cho nghiên cứu khoa học. Nhà cung cấp phần mềm có khả năng giúp bệnh viện trích xuất dữ liệu cần thiết theo yêu cầu.

Do đó, mối quan hệ giữa bệnh viện và nhà cung cấp là mối quan hệ lâu dài, xuyên suốt. Bệnh viện cần phải lựa chọn nhà cung cấp đáp ứng được các yêu cầu mang tính lâu dài đó và có mối quan hệ tốt với nhà cung cấp để được cung cấp dịch vụ hậu mãi và nâng cấp hệ thống đúng thời điểm cần thiết.

Tóm tắt

Mặc dù phần mềm đã có đầy đủ tính năng cần thiết, hầu hết các bệnh viện đều đưa ra các yêu cầu riêng đòi hỏi nhà cung cấp phải đáp ứng.

Yêu cầu về quy trình:

Mỗi bệnh viện có một quy trình hoạt động khác nhau. Có bệnh viện yêu cầu đóng tạm ứng viện phí trước khi nhập viện, bệnh viện khác thì không. Có bệnh viện yêu cầu bệnh nhân phải thông qua khâu tiếp nhận, khám bệnh bệnh trước khi chỉ định dịch vụ, bệnh viện khác thì không. Có bệnh viện cho phép bác sĩ kết thúc một đợt khám và in phiếu thanh toán, bệnh viện khác thì phải thanh toán tại khâu kiểm tra BHYT… Những quy trình này được đưa vào option chọn lựa quy trình. Các nhà cung cấp phần mềm chuyên nghiệp đã từng trải qua nhiều yêu cầu khác nhau này sẽ cung cấp đúng quy trình theo yêu cầu một cách nhanh chóng. Nhà cung cấp không chuyên nghiệp phải mất thời gian để khảo sát lại quy trình và lập trình theo yêu cầu mới.

Công việc khám chữa bệnh phải trải qua nhiều quy trình khác nhau và mỗi quy trình cần được làm rõ ngay từ ban đầu. 

Có nhiều giải pháp để triển khai: bệnh viện triển khai theo quy trình sẵn có của phần mềm, sau đó phần mềm được lập trình chỉnh sửa theo yêu cầu. Hoặc phần mềm sẽ được chỉnh sửa theo yêu cầu trước, sau khi hoàn chỉnh rồi mới cho triển khai thực tế. Cách thứ nhất sẽ giúp bệnh viện tiết kiệm được thời gian.

Yêu cầu về tính năng:

Trong quá trình sử dụng phần mềm, các bác sĩ và người sử dụng thường đưa ra sáng kiến mới, yêu cầu mới nhằm giúp bác sĩ sử dụng phần mềm một cách dễ dàng hơn, thuận tiện hơn. Các yêu cầu này giúp cho phần mềm phát triển thêm tính năng.

Ví dụ: bác sĩ yêu cầu khi gõ tên thuốc thì đồng thời hiển thị luôn thành phần hoạt chất của thuốc hoặc các thuốc thay thế khác.

Yêu cầu về truy xuất báo cáo:

Các mẫu báo cáo được thiết kế theo đúng mẫu của cơ quan quản lý. Tuy nhiên, các mẫu chuẩn này chưa hoàn toàn chuẩn mà có thể biểu hiện những thiếu khuyết hoặc bất hợp lý. Vì vậy, nhà cung cấp phải lập trình thêm các tính năng bổ sung cần thiết cho các báo cáo, thống kê theo yêu cầu của bệnh viện.

Những yêu cầu này thường là bất tận, không có ngày kết thúc. Do đó, giữa bệnh viện và nhà cung cấp cần có những giao kèo để giới hạn phạm vi yêu cầu về mặt thời gian. Những yêu cầu sau một khoản thời gian hạn định sẽ được tính như chi phí phát sinh.

Mạng máy tính là nền tảng thiết yếu để chạy hệ thống mạng. Hệ thống mạng máy tính cơ bản bao gồm:

Lời khuyên cho các bệnh viện trang bị hệ thống phần mềm mới về sau là sử dụng phần mềm Cloud để chạy hệ thống vừa hiệu quả, vừa tiết kiệm chi phí.

Hiện nay các ứng dụng Cloud cho quản lý bệnh viện chưa phổ biến nên không có nhiều chọn lựa cho bệnh viện. Trong tương lai gần ứng dụng cloud sẽ phát triển mạnh.

Tham khảo:

https://www.healthdatamanagement.com/opinion/how-the-cloud-can-break-down-silos-within-hospitals?brief=00000157-c311-d2b6-af57-cb9929c60000 


 

Tóm tắt

Khi sử dụng hệ thống phần mềm mạng nội bộ nhiều rủi ro có thể xảy ra đối với phần cứng, phần mềm và dữ liệu.

Đối với phần cứng: mọi thứ có thể bị hư hỏng: máy chủ, dây mạng, đầu cắm, máy trạm, thiết bị ngoại vi… Máy chủ có thể bị sét đánh, hư ổ cứng, đứt dây mạng, hư RAM, cháy bộ cấp nguồn... Bệnh viện cần có hệ thống máy chủ dự phòng hoặc chí ít là hệ thống ổ cứng kép để chạy song song. Máy chủ phải được bảo quản trong phòng lạnh, thường xuyên vệ sinh, hút bụi bặm. Có bệnh viện gặp tình trạng tín hiệu chập chờn hoặc mất tín hiệu. Tìm hiểu kỹ thì phát hiện dây mạng bị… chuột cắn.

Đối với phần mềm: 

Đối với cơ sở dữ liệu: dữ liệu có thể bị đánh cắp, mất dữ liệu do hư phần cứng, hư ổ đĩa. Do đó, cần cơ chế sao lưu dữ liệu ở nhiều thiết bị lưu trữ khác nhau như ổ cứng song song, lưu vào đám mây, lưu tại máy chủ ở địa phương khác.

Tóm tắt

Ngoài phần mềm quản lý bệnh viện là yêu cầu cốt lõi, bệnh viện có thể trang bị thêm các phương tiện, thiết bị ngoại vi khác. Các thiết bị ngoại vi ngày bao gồm:

  • Hệ thống gọi y tá.

     

Đầu đọc mã vạch và máy in mã vạch: 

Việc nhập liệu bằng tay các chữ số mã bệnh nhân hoặc mã BHYT có thể nhầm lẫn và mất thời gian, gây stress cho người nhập liệu. Mã vạch đơn giản chỉ là dãy số ID của bệnh nhân được hiển thị dưới dạng vạch. Dùng đèn để đọc mã vạch giúp lấy mã số chính xác tuyệt đối, nhanh gọn lẹ. Nếu bệnh viện không đủ kinh phí để trang bị cho tất cả các máy tính trong hệ thống thì ít nhất trang bị cho các vị trí tiếp nhận, viện phí và dược. Mã vạch có thể in trên giấy hoặc trên thẻ nhựa.

Thẻ từ: chức năng tương tự mã vạch, dùng để nhận dạng khách hàng, tuy nhiên được ghi tín hiệu dưới dạng băng từ (như băng cassette). Thẻ từ có thể tái sử dụng cho nhiều BN khác nhau, thường dùng cho khách sạn. Tuy nhiên, thẻ từ không phù hợp cho bệnh nhân vì không thể hiện được tên bệnh nhân, mã số bệnh nhân trên thẻ.

Vòng đeo tay bệnh nhân (wristband): là vòng giấy có in mã vạch để y tá đối chiếu với bệnh nhân khi phát thuốc, chống nhầm lẫn.

head_h_p.jpg

Bộ xếp hàng: thường thấy ở các ngân hàng. Mỗi khách hàng đến giao dịch sẽ rút số từ máy in số thứ tự và ngồi chờ. Khi quầy giao dịch nào trống sẽ nhấn nút để khách hàng có số thứ tự kế tiếp đến quầy giao dịch. Việc ứng dụng bộ xếp hàng này chỉ áp dụng đúng cho khách hàng đến phòng khám, nhưng không áp dụng được cho bệnh nhân khi quay lại bác sĩ sau khi có kết quả cận lâm sàng.

RFID: Là thiết bị phát và nhận sóng Radio. Thiết bị phát Transponder có thể rất nhỏ, kẹp trong ruột một chiếc thẻ nhựa hoặc trong một vòng đeo tay (wristband). RFID có cảm ứng khi đi ngang qua thiết bị nhận sóng (Antena). Ứng dụng tính năng này cho các bệnh viện tâm thần, nhà hộ sinh để kiểm soát bệnh nhân di chuyển ra khỏi bệnh viện nhằm chống tình trạng bệnh nhân trốn viện hoặc trẻ sơ sinh bị bắt cóc.RFID_SYSTEM.gif

COW: Computer On Wheel, máy tính trên xe đẩy. Một số công việc trong bệnh viện cần đến xe đẩy như phát thuốc, siêu âm di động, chụp x quang di động… Trên xe đẩy này được lắp một chiếc máy tính hoặc laptop để thuận tiện cho việc nhập liệu, kiểm soát công việc.

 hiprodigy-cart-diagram.jpg

Ngày nay đã có máy tính bảng (tablet) rất thuận tiện, thay thế cho “con bò” này. Y tá hoặc bác sĩ có thể bọc trong túi áo một chiếc máy tính bảng cỡ bằng 2 bàn tay. Máy tính bảng này có khả năng kết nối không dây với hệ thống chung.

Medical-Guidance.jpg

KIOS: là các trạm máy tính để khách hàng tự thao tác cho các công việc tự làm được như: đăng ký khám, xem kết quả xét nghiệm, kiểm tra quy trình khám, tìm người thân…

APP: các application được thiết kế cho Smart phone. Người dùng smart phone có thể dùng app để đăng ký khám, xem tình trạng bệnh… tương tự như Kios. 

Tóm tắt

Ngoài phần mềm quản lý bệnh viện (được xếp loại phần mềm nội bộ) là một tổng thể liên hoàn các giao diện nhập liệu và thống kê số liệu, còn có rất nhiều các phần mềm ứng dụng, ví dụ: phần mềm đo điện tim, phần mềm đo loãng xương, phần mềm siêu âm, phần mềm phân tích hình ảnh DICOM… Nhiều phần mềm nhỏ lẻ được lập trình để hỗ trợ sức khỏe người bệnh như đo nồng độ O2, CO2, phần mềm đo mạch, huyết áp… Các phần mềm này được ký gửi vào kho phần mềm của các hãng điện thoại di động Apple hoặc Android, miễn phí hoặc có phí. Vào các kho application của điện thoại di động, search cụm từ “medical application” sẽ tìm được nhiều phần mềm trong mảng này để chọn lựa.

Một số phần mềm dùng để tra cứu thuật ngữ y khoa, tra cứu thuốc hoặc ý nghĩa của các xét nghiệm.

Một số thiết bị đo điện tim, đo chức năng hô hấp cũng tạo ra cơ chế truyền dữ liệu bằng sóng wifi, bluetooth, RDFI... ghi chép dữ liệu đó vào trung tâm dữ liệu.

Các phần mềm này có thể được kết nối vào hệ thống phần mềm quản lý bệnh viện để nạp dữ liệu bệnh nhân vào bệnh án điện tử, hoặc để giúp bác sĩ tra cứu thông tin.


 

 

 CẨM NANG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN Y TẾ

01. Lời nói đầu
02. Cấu trúc phần mềm quản lý bệnh viện
03. Những vấn đề về CNTT của bệnh viện
04. Các thuật ngữ
05. Các vấn đề về tính năng phần mềm
06. Một số vấn đề về kỹ thuật phần mềm
07. Các tiện ích CNTT quản lý bệnh viện
08. Cách chọn phần mềm quản lý bệnh viện
09. Cần chuẩn bị gì cho triển khai hệ thống phần mềm?
10. Chuẩn dữ liệu
11. Số liệu thống kê và khai thác dữ liệu
12. Chi phí cho phần mềm
13. Kinh nghiệm triển khai phần mềm
14. Vấn đề đào tạo kiến thức CNTT y tế
15. Xây dựng một hệ thống y học điện tử quốc gia
16. Tác giả - BS. PHAN XUÂN TRUNG
17. Sơ lược về hệ thống phần mềm YKHOANET