Bệnh về xương: đừng lo, đã có san hô
TT - Ứng dụng san hô VN làm vật liệu sinh học ghép trong y học - nghiên cứu của TS-BS Trần Công Toại (Ngân hàng Mô TP.HCM) và GS-TS Trương Đình Kiệt (ĐH Y dược TP.HCM) với kết quả ghép cho gần 200 bệnh nhân (BN) thuộc chuyên khoa mắt, cột sống, răng - hàm - mặt, đã mở ra triển vọng mới cho người bệnh. Những trường hợp nào thì cần được sử dụng san hô thay xương? BS Trần Công Toại cho biết:
- Trong các ca bị múc bỏ mắt: từ năm 1998, sản phẩm bắt đầu được đưa vào sử dụng tại BV Mắt TP.HCM. Tính đến nay bi san hô đã được sử dụng nhiều nhất với trên 100 ca. Với những BN không may bị tai nạn giao thông, đả thương hoặc bị bệnh phải múc bỏ mắt..., ngay sau khi múc mắt BS ghép một viên bi san hô vào bao củng mạc để tạo hình lại hốc mắt, giữ cơ nhãn cầu đúng vị trí, không bị teo. Sau khi lành, BS đặt mắt giả vào thì BN có thể liếc được.
Trong răng - hàm - mặt: khi nhổ răng, BS có thể ghép san hô cho đầy sống hàm, chống teo sống hàm để lúc làm răng giả đặt vào sẽ thuận lợi hơn. Trường hợp các chóp răng bị sâu, viêm, tạo những hốc gọi là nang chóp răng, khi điều trị phải nạo bỏ xương viêm và sẽ để lại một khoảng trống, muốn lành xương phải có vật liệu ghép. Trước đây phải dùng vật liệu HTR của Pháp rất đắt tiền. Nay sử dụng san hô VN chỉ sau khoảng ba tháng san hô được xương mọc vào thay thế, đồng hóa gần như bình thường.
Bi san hô được ghép vào hốc mắt |
Trong năm 2003 bắt đầu dùng san hô để tạo hình những phần khiếm khuyết xương cho BN bị tổn thương xương hàm, xương gò má, xương hốc mắt... Những BN này trước đây phải chấp nhận mặt bị móp, biến dạng do thiếu xương hoặc phải dùng ximăng, titanium rất đắt tiền và sau ghép không tự tiêu được.
Trong khi ghép vật liệu san hô vào ngoài việc tạo hình ban đầu, sẽ được thay thế dần bằng chính mô của cơ thể người đó. BS điều trị tạo những khung định hình trước trên BN bằng nhựa hoặc thạch cao, rồi dựa vào đó sẽ chế tạo mảnh san hô bằng kỹ thuật thủ công. Khoa phẫu thuật hàm mặt Viện Răng hàm mặt TP đã ghép cho sáu trường hợp như vậy.
Trong những bệnh lý gây chèn ép tủy do hẹp ống sống (do thoái hóa xương hoặc đĩa đệm, chèn ép vào lòng tủy): phương pháp điều trị là mở rộng ống sống, dùng san hô làm vật liệu ghép để làm rộng ống sống. BV Chấn thương chỉnh hình TP.HCM đã áp dụng cho 10 trường hợp, khoa ngoại thần kinh BV Chợ Rẫy thực hiện cho trên 30 ca.
* BS có thể cho biết một số ứng dụng trong thời gian tới?
Nghiên cứu chế tạo san hô VN làm vật liệu ghép thay xương là nghiên cứu đầu tiên ở VN nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung trong lĩnh vực này. Đề tài được bắt đầu từ khoảng 1994 với sự cộng tác của Viện Hải dương học Nha Trang và một số cơ quan khoa học khác. Một phần kết quả nghiên cứu đã được công bố trong nước và quốc tế từ những năm 1997-1998. Ngày 22-10-2003, đề tài được hội đồng khoa học Sở Khoa học & công nghệ TP.HCM thống nhất đánh giá đạt kết quả xuất sắc. |
- Vật liệu san hô để chữa những bệnh lý cột sống sẽ được tiếp tục triển khai như: tái tạo bảng sống, tạo hình thân sống hoặc đĩa đệm. Sắp tới bộ môn cũng kết hợp với khoa chi trên BV Chấn thương chỉnh hình TP.HCM để ghép cho một số trường hợp mất xương ở vùng chi trên. Ngoài ra tùy BS lâm sàng có yêu cầu, có thể dùng san hô trong tạo hình những sàn sọ, hộp sọ...
Trong tương lai sẽ chế tạo ximăng sinh học từ san hô để điều trị một số bệnh lý chấn thương chỉnh hình như bơm vào những hốc xương bị thiếu hụt, kèm tạo hình tại chỗ cho những xương tổn thương mà không cần phải phẫu thuật mở rộng.
Ximăng dùng trong y học hiện khoảng 500 USD/5cc, có đặc điểm tồn tại vĩnh viễn nhưng về lâu dài có thể làm khuyết xương. Trong khi ximăng sinh học sẽ được thay thế dần để đến một thời điểm nào đó nó trở thành của chính cơ thể người đó.
Không như những vật liệu nhân tạo khác, đặc tính độc đáo của san hô Porites lutea là sau ghép một thời gian được cơ thể tiếp nhận, đồng hóa (san hô được xương mọc vào, thay thế) gần giống như xương bình thường.
Hiện chúng tôi đang tiếp tục nghiên cứu cấy tế bào nguyên bào sợi, nguyên bào xương vào san hô để tăng chất lượng sản phẩm ghép... Nói chung sẽ đi vào đa dạng hóa và chuyên sâu hóa các sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của tiến bộ khoa học kỹ thuật và y học.
KIM SƠN thực hiện