BỆNH LOÃNG XƯƠNG
PTS. BS LÊ ANH THƯ
Bệnh viện Chợ Rẫy
Bệnh loãng xương được ví như những tên ăn cắp vặt, mỗi ngày một chút, 
	chúng lấy dần các khóang chất quý báu trong ngân hàng xương của mỗi chúng 
	ta. Lúc đầu, thường không có biểu hiện gì, nhưng khi có các dấu hiệu rõ 
	ràng, khối lượng xương thường đã mất tới trên 1/3 (35%). Hậu quả gãy xương 
	do loãng xương thường khá nặng nề với sức khỏe người có tuổi vì xương đã bị 
	loãng rất lâu liền, người bệnh phải nằm lâu ngày nên rất dễ bị bội nhiễm 
	(Viêm phổi, viêm đường tiết niệu, loét mục...). Điều trị loãng xương thường 
	khá tốn kém, đặc biệt khi đã có các biến chứng nặng nề như gãy xương, gãy 
	lún cột sống... Hiệu quả nhất, kinh tế nhất là phòng bệnh, phòng bệnh từ khi 
	còn nhỏ, từ khi còn trẻ, từ các thế hệ trước... để khối lượng khóang chất 
	đỉnh của bộ xương đạt con số cao nhất lúc tuổi trưởng thành, đồng thời duy 
	trì một nếp sống và sinh hoạt lành mạnh, giảm tối đa các yếu tố nguy cơ của 
	bệnh. 
HẬU QUẢ CỦA BỆNH LOÃNG XƯƠNG? 
Gãy xương khi bị những chấn thương nhẹ là hậu quả cuối cùng cuả bệnh loãng 
	xương. Gãy xương do loãng xương thường gặp ở các vị trí chịu lực của cơ thể 
	như cột sống thắt lưng và cổ xương đùi. Với người có tuổi, thường có nhiều 
	bệnh lý cuả tuổi tác đi kèm như tim mạch, huyết áp, tiểu đường... và đặc 
	biệt với tình trạng loãng xương nặng saün có (thiếu chất khoáng và protein 
	cuả xương) thì việc liền xương thường rất khó khăn, đa số người bệnh phải 
	nằm tại chỗ nhiều ngày, thậm chí phải nằm điều trị dài ngày trong bệnh viện. 
	Việc nằm tại chỗ dài ngày khi gãy xương không những làm tình trạng loãng 
	xương càng nặng lên mà còn kéo theo nhiều nguy cơ rất bất lợi cho sức khỏe 
	người có tuổi như bội nhiễm đường hô hấp, đường tiết niệu, loét mục ở các 
	điểm tỳ đè... Đây cũng là một nguyên nhân chính gây tàn phế và giảm tuổi thọ 
	cho người có tuổi (Theo thống kê ở các nước phát triển có đến 20% người có 
	tuổi bị gãy cổ xương đùi sẽ tử vong trong vòng 6 tháng đầu vì các biến chứng 
	do nằm lâu nêu trên)
KHI BỊ BỆNH LOÃNG XƯƠNG RỒI CÓ CHỮA ĐƯỢC KHÔNG?
Bệnh loãng xương có thể được cải thiện nhờ một chế độ ăn uống sinh hoạt và 
	thuốc men hợp lý. Các nghiên cứu theo dõi dài hạn cho thấy việc điều trị đã 
	làm tăng được khối lượng khoáng chất của xương, giảm đau đớn, phòng ngừa 
	được gãy xương, giảm các nguy cơ gãy xương...cải thiện chất lượng cuộc sống 
	cho người có tuổi.
Chế độ ăn uống, sinh hoạt
Cần duy trì một chế độ ăn uống đầy đủ, đa dạng, hợp lý phù hợp với nhu cầu 
	của cơ thể trong từng giai đoạn, từng lứa tuổi, từng thói quen sinh hoạt.
Theo các nghiên cứu gần đây của Trung tâm dinh dưỡng Thành phố Hồ Chí Minh, 
	chế độ ăn cuả dân ta nói chung rất thiếu calci. Sữa và các sản phẩm từ sữa 
	(bơ, phomat..) giầu calci chỉ chiếm một vị trí rất khiêm nhường trong khẩu 
	phần ăn cuả đa số dân ta và con số ít oiû này cũng chỉ tập trung ở một số 
	thành phố lớn như TP. Hồ Chí Minh và Hà nội .
Ở người có tuổi cần đặc biệt quan tâm đến các thành phần khóang chất (đặc 
	biệt là calci) và protid trong khẩu phần ăn vì ở người có tuổi khả năng ăn 
	uống và hấp thu các chất dinh dưỡng và khóang chất đều bị hạn chế. Chính vì 
	vậy sữa là một loại thức ăn lý tưởng để cung cấp cả calci và protid cho 
	người có tuổi. Lượng sữa cần thiết mỗi ngày từ 500 đến 1.000 ml (có thể là 
	sữa tươi, sữa chua hoặc sữa pha từ sữa bột).
Cần duy trì một chế độ sinh hoạt đa dạng, năng động: vận động thể lực đều 
	đặn, vừa sức, tăng cường các hoạt động thể lực ở ngoài trời. Việc vận động 
	thường xuyên vừa có ích cho toàn cơ thể (hệ tim mạch, hệ hô hấp, hệ thống 
	tiêu hóa...) vừa tác dụng tốt trực tiếp cho hệ thống xương cơ khớp, chống 
	thóai hóa và chống loãng xương (do tăng cường hoạt động của tế bào sinh 
	xương, tăng cường hấp thu calci và protid). 
Đối với người lớn tuổi cần hết sức tránh bị té ngã vì khi xương đã bị 
	loãng, gãy xương sẽ rất dễ xảy ra, khi gãy lại rất khó liền. Việc bất động 
	để điều trị gãy xương không những làm cho loãng xương nặng thêm mà còn là 
	nguy cơ của nhiều bệnh lý do nằm lâu khác 
Chế độ thuốc men
Thuốc giảm đau chỉ dùng khi cần thiết, tùy mức độ có thể dùng các thuốc 
	giảm đau đơn thuần (Paracetamol, Idarac...) hay dùng Calcitonine thuốc vừa 
	có tác dụng ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương vừa có tác dụng giảm 
	đau do hiện tượng loãng xương. Tránh dùng các thuốc kháng viêm giảm đau đặc 
	biệt nhóm thuốc kháng viêm chứa Corticosteroides.
Cung cấp calci theo nhu cầu của cơ thể ở từng lứa tuổi, từng trạng thái cơ 
	thể... để bổ sung cho những thiếu hụt mà khẩu phần ăn hàng ngày chưa đáp ứng 
	đủ (Ở người có tuổi, nhu cầu về calci tăng mà khả năng hấp thu calci ở ruột 
	lại bị giảm sút, ở phụ nữ có thai, cho con bú, sau mãn kinh... nhu cầu calci 
	đều tăng...)
Cung cấp vitamin D hoặc chất chuyển hóa cuả vitamin D (Calcitriol - 
	Rocaltrol) để tăng cường khả năng hấp thu và sử dụng calci của cơ thể.
Dùng các thuốc để ức chế hoạt động của các tế bào hủy xương: Liệu 
	pháp hormon thay thế (hormon sinh dục nữ cho phụ nữ sau mãn kinh), 
	Calcitonine... theo chỉ định và theo dõi của thầy thuốc.
Dùng các thuốc để kích thích hoạt động của các tế bào sinh xương: 
	Các chất làm tăng đồng hóa (Durabolin, Deca-Durabolin), hormon sinh dục nam 
	(cho nam giới nếu có thiếu hụt cần bổ xung), muối Fluoride... theo chỉ định 
	và theo dõi của thầy thuốc.
Để có kết quả, việc điều trị loãng xương cần toàn diện, liên tục và lâu 
	dài. Thời gian điều trị bệnh loãng xương phải được tính bằng năm chứ không 
	tính được bằng tháng (Để đánh giá kết quả điều trị, thường phải sau 2 năm) 
	nên chi phí thường quá cao so với mức sống hiện nay của đa số nhân dân lao 
	động. Chính vì vậy việc phòng ngừa bệnh có ý nghĩa rất lớn, cả về mặt hiệu 
	quả và kinh tế.
CÓ CÁCH GÌ ĐỂ PHÒNG NGỪA BỆNH LOÃNG XƯƠNG?
Việc đầu tiên và quan trọng nhất là bảo đảm khối lượng khóang chất đỉnh cuả 
	bộ xương cao nhất lúc trưởng thành bằng cách:
Bảo đảm một chế độ dinh dưỡng đầy đủ cho các bà mẹ khi mang thai (để em bé 
	có bộ xương "vốn liếng" tốt nhất), khi cho con bú (để đủ calci cho sự phát 
	triển của bộ xương ngay từ đầu).
Bảo đảm chế độ dinh dưỡng và vận động cho trẻ em để đạt mức phát triển cơ 
	thể tốt nhất.
Duy trì một chế độ dinh dưỡng hợp lý, một nếp sống lành mạnh, năng động, 
	kết hợp hài hòa giữa công việc hàng ngày, hoạt động thể lực, giải trí... 
	ngay từ khi còn nhỏ, ngay từ khi còn trẻ, tránh các thói quen gây ảnh hưởng 
	xấu tới chuyển hóa calci như: uống nhiều rượu, bia, cafe, hút thuốc, ăn 
	kiêng quá mức, thụ động, ít vận động thể lực... Từ tuổi 40, hoạt động của 
	các tế bào hủy xương bắt đầu trội hơn các tế bào sinh xương vì vậy chúng ta 
	nên tính toán cụ thể và bổ xung đủ lượng calci cần thiết bằng chế độ ăn uống 
	hàng ngày và tăng cườnghơn nữa các hoạt động thể lực ngoài trời.
Phát hiện vá điều trị các bệnh kèm theo. Điều chỉnh và kiễm soát chặt chẽ 
	các thuốc điều trị.
Nếu cần sử dụng lâu dài các thuốc chống co giật (Phenyltoin, 
	Barbiturate...), bổ xung thêm vitamin D vì các thuốc này ảnh hưởng đến 
	chuyển hóa của vitamin D.
Nếu cần sử dụng lâu dài Corticosteroid, bổ xung thêm calci, vitamin D và 
	chất kích thích tạo xương vì Corticosteroid vừa ức chế trực tiếp sự tạo 
	xương, vừa giảm hấp thu vitamin D, vừa tăng thải calci qua nước tiểu.
Ở phụ nữ mãn kinh một mặt tăng cường bổ xung calci, vitamin D, khuyến khích 
	hoạt động thể lực và tập luyện ngoài trời, khuyến khích tham gia công tác và 
	giao tiếp xã hội, mặt khác động viên và hường dẫn chị em áp dụng Liệu pháp 
	hormon thay thế nếu có chỉ định và có điều kiện (Điều kiện theo dõi, điều 
	kiện kinh tế). Tốc độ mất xương sẽ cao nhất sau mãn kinh từ 5 đến 7 năm, vì 
	vậy Liệu pháp hormon thay thế rất cần được áp dụng sớm để ngăn ngừa loãng 
	xương sau mãn kinh. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất, mang lại hậu quả 
	nặng nề nhất cho nhiều phụ nữ lớn tuổi. 
LÀM THẾ NÀO ĐỂ BIẾT ĐIỀU TRỊ CÓ KẾT QUẢ?
Bệnh loãng xương cần được điều trị toàn diện, liên tục và lâu dài. Có thể 
	đánh giá kết quả điều trị cần dự ?bị mất một đoạn? xương trước 
	và sau một thời gian điều trị (thường là 1 - 2 năm).
DEXA (Quét và đo độ hấp thu Proton của xương) để theo dõi sự cải thiện của 
	Tỷ lệ khóang chất (BMD) và Khối lượng xương (BMC) sau một thời gian điều trị 
	(thường là 1 - 2 năm).
KẾT LUẬN
loãng xương là một bệnh phổ biến ở người lớn tuổi đặc biệt là phụ nữ sau 
	mãn kinh. Khi đã bị bệnh, để giảm các biện chứng nặng như gãy cổ xương đùi, 
	gãy xương cổ tay, gãy xẹp đốt sống... cần phải thực hiện nhiều biện pháp, 
	nhiều loại thuốc liên tục và kéo dài. Chi phí điều trị loãng xương hàng năm 
	rất lớn và ngày càng gia tăng, chất lượng cuộc sống của người có tuổi bị ảnh 
	hưởng... là điều các quốc gia đều cần phải quan tâm. 
"Phòng bệnh hơn Chữa bệnh". Bệnh loãng xương có thể được phoìng ngừa tốt 
	bằng việc duy trì một chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện, vận động đầy đủ 
	và hợp lý ngay từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành và trong suốt cuộc đời. 
	Đây phải là ý thức tự giác của nhiều thế hệ cha mẹ khỏe mạnh, các con khỏe 
	mạnh. Riêng ở phụ nữ sau khi mãn kinh, loãng xương sẽ được phòng ngừa tốt 
	nhất bằng liệu pháp hormon thay thế (nếu có chỉ định và điều kiện) kết hợp 
	với chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện, vận động đầy đủ và hợp lý.


