Rắn độc chữa bệnh
Theo Đông y, thịt rắn làm thông kinh mạch bị bế tắc và trừ phong hàn nên được dùng để trị các chứng phong thấp. Nó cũng có khả năng chữa trị chứng tê ngoài da, ngứa, nhất là ngứa kinh niên do chàm (eczema).
Rắn có thể có nọc độc hoặc không. Ở rắn độc, hai răng ở hàm trên
phát triển thành nanh, chứa chất độc. Rắn có một khả năng đặc biệt
là thay da mà chúng ta thường gọi là “lột da”, mỗi năm rắn có thể
thay da vài lần. Da rắn sau khi lột là một vị thuốc quý trong Đông
y.
Nhóm rắn không độc gồm rắn vòng cổ; rắn đuôi nhọn; rắn
nước (dài khoảng 50cm-2m, chạy rất nhanh, đầu không ngóc cao khỏi
đất), ô sao xà. Nhóm rắn độc gồm rắn lục, rắn chuông, rắn hổ và bạch
hoa xà. Rắn biển (còn gọi là Đẻn) đa số tương đối hiền, chỉ vài loài
hung dữ, nhưng đặc biệt nọc rắn biển rất độc (gấp 50 lần nọc rắn
hổ).
Như mọi động vật khác, rắn là nguồn cung cấp chất đạm
rất tốt, thịt rắn tương đối nạc, ít mỡ do vận động nhiều. Nó cũng có
nhiều vitamin và khoáng chất quý như kali, canxi, sắt, kẽm, vitamin
A, D, B1, B2, B6, B9...
Đông y dùng rắn dưới nhiều dạng, từ
ngâm rượu, nấu cháo đến uống rượu pha máu rắn, ăn mật rắn. Y thư cổ
truyền Trung Quốc có kê những toa thuốc lấy từ 2 loại rắn: một từ
rắn độc Bạch hoa xà (chỉ chung 2 loài hổ và cạp nong) và một từ rắn
nước gọi là Ô sao xà.
Theo Đông y, rắn (không kể phủ tạng),
có tính ấm, vị ngọt, tác động vào Can kinh và Tỳ kinh. Cả hai loại
trên có tác dụng như nhau, nhưng rắn nước thì yếu hơn. Thịt rắn được
dùng để trị các chứng phong thấp, tê ngoài da, ngứa, nhất là ngứa
kinh niên do chàm. Da rắn sau khi lột (Xà thuế) tính bình, vị ngọt
mặn, có tác dụng khu phong, chống co giật nên được dùng trị bệnh
phong ngứa ngoài da, và kinhgiật ở trẻ em.
Các bộ phận khác của rắn còn được sử dụng theo nhiều phương thức khác nhau. Huyết rắn làm tăng sinh lực, bổ thận; có thể dùng chung với mật rắn để tạo thành “Huyết xà đởm”. Mật rắn vị đắng, tính hàn, có thể làm hạ hỏa và tiêu đờm do nhiệt gây ra. Mật rắn cũng giúp tan máu bầm nên được ngâm rượu để chữa chứng nhức xương, phong thấp.
Rượu rắn được xem là một loại thuốc bổ dưỡng. Rượu ngâm với rắn khô
hoặc tươi đều được nhưng phải bỏ đầu, đuôi và tạng phủ (chỉ giữ lại
mật). Nếu ngâm tươi phải đủ 100 ngày, nhưng nếu rắn đã sấy hoặc phơi
khô thì chỉ cần 30 ngày.
Các loại rượu rắn: Tam xà tinh ngâm
3 loại rắn hổ mang, cạp nong và hổ lửa; ngũ xà tinh thêm hổ trâu và
hổ hành; lục vị xà tửu gồm rắn ngâm với 6 vị thuốc; bát vị xà tửu
ngâm với 8 vị thuốc. Thuốc được ngâm chung với rắn thường là những
vị bổ như sinh địa, thục địa, nhân sâm, hà thủ ô, đỗ trọng hoặc thêm
xuyên khung, bạch chỉ, hoàng kỳ để trị phong thấp; có thể thêm câu
kỷ tử, ngũ vị tử, phúc bồn tử để giúp tráng dương, bổ thận.
Thuốc đặc chế đông dược: Xà đởm xuyên bối tán gồm 2 thứ là mật rắn
và xuyên bối mẫu, dùng để trị ho và tiêu đờm. Xà đởm trần bì tán
được dùng để trị phong nhiệt gây ho đờm, hen, tức ngực, viêm họng và
trị chứng kinh phong. Tam xà đởm xuyên bối cao là thuốc bào chế dưới
dạng siro dùng trị ho cho trẻ em.
Nếu như Đông y sử dụng hầu hết các bộ phận của rắn thì Tây y chỉ chú
trọng nghiên cứu độc tính và tác dụng của nọc rắn
nhằm chế tạo các loại huyết thanh kháng độc khi bị rắn cắn. Các nhà
khoa học nhận thấy dù cùng một nhóm thì mỗi loài rắn vẫn sở hữu một
loại nọc đặc thù. Có thể chia các độc tố thành: Độc tố tác động vào
máu (gây đông máu hoặc chống đông máu), độc tố tác động vào hệ thần
kinh (gây kích thích thần kinh, tê liệt cơ, co giật, ức chế thần
kinh làm suy hô hấp, suy tim) và độc tố gây dị ứng (nổi mề đay, lở
loét da, sưng phù toàn thân).
Ngoài huyết thanh kháng nọc, y
học đã chế được thuốc từ nọc rắn. Một loại thuốc chống đông máu đã
được bào chế bằng độc chất chiết xuất từ nọc loài rắn chuông ở Mỹ,
được đặt tên là Barbouri. Một loại thuốc kháng mang tên Integrilin
(được chế tạo theo công thức của Barbourin, chỉ thay thế vài vị trí
của các acid amin) cũng đang được thử nghiệm trong điều trị cơn đau
thắt ngực và nhồi máu cơ tim.
Nghiên cứu về nọc độc của rắn
lục Bothrops jararaca, các nhà khoa học đã phát hiện ra một loại
Peptid có khả năng làm hạ huyết áp. Từ đó, họ đã phát minh ra loại
thuốc ức chế men chuyển đầu tiên: thuốc Captopril (Capoten) để điều
trị bệnh cao huyết áp.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)