SẠN THẬN
  BS. NGUYỄN Y ĐỨC
            Bệnh sạn 
	thận rất thường xảy ra, và có nhiều ở đàn ông hơn đàn bà. Thời gian tới tuổi 
	70 thì 5% nữ giới và 9% nam giới có sạn thận ít nhất một lần. Sau đó sạn 
	thận hay tái phát.
            
	Nguyên nhân: Trong đa số các trường hợp, nguyên nhân gây ra sạn thận đều 
	không biết; một số có trong gia đình hoặc do các bệnh của ruột, tuyến giáp 
	trạng, khiếm khuyết cấu tạo của thận. Sạn thận là kết quả của một phản ứng 
	hóa học xảy ra khi vì lý do nào đó mà nước tiểu trở nên quá đậm đặc khiến 
	các chất calcium, urid, cystine kết tinh thành những hạt nhỏ.
            
	Các loại sạn 
            - Sạn 
	calcium. Có tới từ 75% sạn cấu tạo bằng chất cacium (oxalate, phos phate, 
	carbonate), đàn ông nhiều gấp hai, ba lần đàn bà, thường bắt đầu vào tuổi 
	20, 30 và hay tái phát. Calcium oxalate là nhiều nhất và thường do thực phẩm 
	hay bệnh đường ruột gây ra.
            - Sạn 
	uric acid. Chiếm 10% các loại sạn thận, nhiều ở đàn ông. Người bị sạn này 
	thường bị bệnh thống phong (gout).
            - Sạn 
	gystine, 1% thường do di truyền.
            - Sạn 
	struvite, to, đôi khi làm nghẹt thận, gây ra nhiễm trùng đường tiểu tiện.
            Sạn có 
	thể nhỏ như hạt cát hoặc lớn như trái banh bóng bàn; có thể trơn tru, nhằn 
	nhụi hay sắc cạnh.
            Sạn được 
	tạo ra trong trái thận hay trong ống dẫn nước tiểu. Thường thường sạn thận 
	không gây đau trừ khi nó di chuyển từ thận xuống ống dẫn tiểu. Những cơn đau 
	này rất dữ dội khiến người bệnh nhớ suốt đời, và có người nói đau hơn đau 
	đẻ.
                        
	Nguy cơ gây sạn
            Sạn thận 
	xảy ra khi ta không uống đầy đủ nước, nước tiểu trở nên đậm đặc, các hóa 
	chất kể trên kết tinh; khi ta ăn vài thực phẩm như bơ, sữa, chocolate, đậu 
	phọng; khi có nhiễm trùng đường tiểu tiện; khi đã có sạn trước đây; là đàn 
	ông; trong gia đình có thân nhân bị sạn.
                        
	Tìm ra bệnh: Bình thường, sạn hiện diện trong âm thầm, chỉ gây đau khi 
	di chuyển, và tìm ra sạn do tình cờ khi chụp quang tuyến bụng vì các bệnh 
	khác. Cơn đau hay thấy ở ngang mạng mỡ, đôi khi có sốt nhẹ. Khi nghi ngờ có 
	sạn, bác sĩ sẽ thử nước tiểu coi có máu, nhiễm trùng, chụp hình các loại để 
	xác định sự hiện diện của sạn.
                        
	Trị bệnh: Hiện nay, để chữa sạn thận, các nhà chuyên môn có thể theo ba 
	cách:
            
	a. Theo dõi, đợi chờ. Trong nhiều trường hợp, sạn nhỏ có thể được tiểu 
	tiện ra ngoài, nhất là khi ta uống nhiều nước (10 ly trong ngày, 1 ly trước 
	khi đi ngủ), tránh thực phẩm có nhiều calcium. Mỗi lần tiểu, lọc coi có sạn 
	nhỏ trong nước tiểu, đưa bác sĩ để phân loại.
            
	b. Dùng thuốc. Tùy theo loại sạn, sẽ có dược phẩm thích hợp. Nếu sạn 
	loại uric acid thì thuốc Allopurinol sẽ làm giảm hóa chất này trong máu, 
	dung địch Bicarbonate làm tan sạn. Đồng thời cần uống nhiều nước, bớt ăn 
	thịt (có nhiều phản ứngrine). Sạn cystine ít khi xảy ra, thuốc 
	penicillamine, tiopronun thường được dùng để làm giảm cystine. Uống nhiều 
	nước, bớt ăn cá. Khi sạn gây ra do nhiễm trùng đường tiểu tiện, thuốc trụ 
	sinh được dùng trước khi sạn được lấy ra.
            
	c. Nghiền sạn bằng sóng lực trong nước (Shock wave lithotripsy): Đây là 
	phương pháp trị liệu tương đối mới, được sáng chế bên Tây Đức, dùng ở Hoa Kỳ 
	năm 1984. Có nhiều loại máy, nhưng nguyên tắc chung giống nhau: máy tạo ra 
	những đợt sóng lực có sức mạnh làm rạn nứt, tan vỡ sạn, mà không gây thương 
	tích cho cơ thể, áp dụng cho trường hợp sạn nằm ở thận hoặc phần trên của 
	ống nước tiểu, người bệnh nằm trên một cái nệm nước hay trong bể nước, các 
	đợt sóng có sức mạnh chuyển qua nước, dội vào nơi có sạn. Trung bình cần từ 
	200 tới 400 đợt sóng để làm vỡ sạn, đôi khi cần tới 1500 đợt. Phương pháp 
	này kéo dài khoảng một giờ có thể thực hiện trong ngày, sau vài giờ theo 
	dõi, bệnh nhân có thể về nhà. Thường thường không cần đánh thuốc mê, nhưng 
	để bớt đau, bệnh nhân được cho liều thuốc an thần. Bệnh nhân cũng mang máy 
	bịt tai để tránh âm thanh to do sóng lực gây ra. Khi về nhà, cần uống nhiều 
	nước, đi tới đi lui, tiểu khi mót, lọc nước tiểu để theo dõi sạn ra bao 
	nhiêu.
            
	d. Giải phẫu. Khi các phương pháp trên không có kết quả, thì nhiều 
	phương pháp giải phẫu được áp dụng, bệnh nhân cần được nhập bệnh viện.


