LOÉT DẠ DÀY (BAO TỬ) - TÁ TRÀNG
PGS. PTS HOÀNG MINH
Dạ dày - tá tràng đóng vai trò quan trọng trong tiêu hóa thức ăn. Thức ăn sau khi được cắt nhỏ, nghiền nát, nhào quyện với nước bọt ở miệng đến dạ dày tá tràng được các dịch tiêu hóa ở đây tiếp tục quá trình tiêu hóa. Ở dạ dày dịch tiêu hóa chủ yếu là dịch vị, ở tá tràng có dịch tá tràng, dịch tụy, dịch mật từ túi mật đổ xuống. Đau dạ dày là từ dân gian để chỉ quá trình bệnh lý (viêm, loét, ung thư...) không chỉ ở vùng dạ dày mà cả vùng tá tràng. Hai vùng này có những điểm chung nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau về quá trình bệnh lý. Ở đây chỉ khu trú vấn đề trong loét dạ dày - tá tràng. Bệnh này thường xảy ra ở người lớn tuổi (thanh niên, trung niên, người già). Loét tá tràng thường gặp ở người trẻ hơn (thanh niên, trung niên). Loét dạ dày ở người lớn tuổi hơn (trung niên, người già.
Người loét dạ dày tá tràng có đặc điểm là hay đau
bụng vùng trên rốn (thượng vị) nhiều năm từ vài ba năm đến hàng chục năm.
Đau có tính chu kỳ, thường về mùa rét, mỗi lần 5-10 ngày. Các đợt đau thường
liên quan đến các chấn thương tinh thần, tình trạng căng thẳng thần kinh,
thường về mùa rét. Loét tá tràng thường đau khi đói, đau về đêm, ăn vào bớt
đau nên người bệnh luôn có sẵn thức ăn (kẹo, bánh quy...) bên mình. Loét dạ
dày ít đặc điểm này. Đau có chu kỳ với những đặc điểm trên là triệu chứng
quan trọng nhất của loét dạ dày - tá tràng.
Để chẩn đoán, phải chụp X quang có cản quang (baryt)
vùng dạ dày - tá tràng hoặc nội soi tìm ổ loét.
Đối với loét dạ dày, ổ loét có thể ở vùng bờ cong nhỏ, bờ
cong lớn hoặc vùng hang vị, môn vị. Loét bờ cong nhỏ dễ bị ung thư hóa hơn
loét bờ cong lớn. Loét vùng môn vị tá tràng dễ gây hẹp môn vị, sa dạ dày.
Chỉ có loét dạ dày mới có thể ung thư hóa. Hầu như không gặp điều đó ở loét
tá tràng.
Ảnh ổ loét trong loét tá tràng có thể giúp đánh giá kết quả
điều trị và tiên lượng bệnh. Xét nghiệm dịch vị trong loét dạ dày ít có thay
đổi có giá trị. Có thể độ axit bình thường, hoặc có thể ít hoặc tăng. Trong
loét hành tá tràng độ axit tăng rất rõ. Loét dạ dày dễ bị thủng hơn loét
hành tá tràng, loét hành tá tràng hay thấy chảy máu hơn. Biến chứng chảy máu
hoặc thủng nhiều khi là biểu hiện đầu tiên ở người bệnh không có triệu chứng
rõ ràng. Chính do các biến chứng này mới xác định được bệnh cho người bệnh.
Loét dạ dày có thể kết hợp với xơ gan. Tỷ lệ này gặp ở 10-17% người xơ gan
trên thế giới. Ở nước ta 10% có thể loét với u tụy gây ra hội chứng
Zollinger ellison với các dấu hiệu: tiêu chảy, phân mỡ, dạ dày tá tràng có
nhiều ổ loét ở những vị trí bất thường. Ở nước ta chúng tôi cũng phát hiện
được một số bệnh nhân có hội chứng này.
Nguyên nhân gây loét được nói đến rất nhiều. Thô sơ nhất trước đây có người coi loét dạ dày - tá tràng liên quan đến vấn đề ăn uống (uống nhiều rượu, ăn nhiều gia vị, chất kích thích dạ dày...). Có giả thuyết nêu lên do tình trạng tinh thần (Loét thường hay có ở người có chấn thương tình cảm, hay xúc động, sốc tinh thần. Thời kỳ chiến tranh số người mắc bệnh tăng lên. Thành phố Leningrad trong thế chiến 2 thời gian bị Đức Quốc xã bao vây có rất nhiều người loét dạ dày - tá tràng...), thần kinh (người ta nói đến vai trò thần kinh 10 trong bệnh này vì thế đã nhiều phẫu thuật viên cắt thần kinh 10 để điều trị loét) v.v... Gần đây nhất giả thuyết nguyên nhân sinh bệnh do mất thăng bằng giữa yếu tố gây loét và yếu tố chống loét được nêu: dịch vị có độ axit cao vượt quá khả năng chống đỡ của niêm mạc hành tá tràng bình thường, hoặc do niêm mạc dạ dày giảm dinh dưỡng nên không đủ khả năng chống lại dịch vị có độ axit ít hoặc bình thường.
Những lý thuyết trên đã dẫn người ta đến các cách xử trí
rất khác nhau. Phổ biến nhất trước đây là cắt bỏ phần dạ dày mà người ta
cho rằng tiết nhiều axit (vùng hang vị, phần dạ dày phía dưới): phẫu thuật
Bilroth 1, Bilroth 2, Polya, Finsterer v.v... hoặc cắt dây thần kinh 10 đoạn
phân nhánh cho dạ dày v.v... nhưng kết quả đạt được không như người ta nghĩ.
Năm 1972 khái niệm mới coi niêm mạc dạ dày là nơi tiếp nhận histamin H2
được nêu. Khái niệm này đã đưa đến việc dùng các thuốc ức chế nơi tiếp nhận
histamin H2: burinamide, metiamide và mới nhất là cimétidine
(biệt dược là tagamet) rồi ranitidine (biệt dược là azantac, raniplex).
Năm 1982 hai nhà khoa học người Autralia là Barry Masshall
và S. Robinson Warren phát hiện ra Helicobacter pylori và chứng minh chính
vi khuẩn này là nguyên nhân gây viêm loét đã tạo nên sự đổi mới hoàn toàn
trong điều trị bệnh này.
Hiện nay người ta điều trị loét dạ dày - tá tràng bằng
kháng sinh Amoxicillin, Klien có tác dụng với H. Pylori, thuốc ức chế nơi
tiếp nhận histamin H2: Cimétidine (tagamet), Nanitidine
(azantac), thuốc chống tiết dịch dạ dày (ức chế bơm proton): Lanzor,
Omez..., thuốc kháng axit và băng rịt: Gastropulgite, Kremil S, Maalox,
Phospha lygel v.v... Phẫu thuật được dùng cho những trường hợp ổ loét xơ
chai, không điều trị khỏi bằng phương pháp nội khoa, có biến chứng: thủng dạ
dày, hẹp môn vị v.v... Người bệnh được khuyên có chế độ ăn uống, làm việc,
nghỉ ngơi hợp lý, phù hợp với tình trạng sức khỏe.