Sa sút trí tuệ có điều trị được không?
Tác giả : TS.PGS. VŨ ÁNH NHI
Bệnh mạch máu não thường liên quan tới sa sút trí tuệ, kể cả alzheimer. Đây là khái niệm quan trọng trong sự tiếp cận với trường hợp sa sút trí tuệ mà yếu tố mạch máu não được xác định. Mặc dù hiệu quả của điều trị chuyên biệt sa sút trí tuệ mạch máu (ssttmm) còn chưa đạt được, nhưng nếu điều trị sớm và đầy đủ, có thể giúp hạn chế sự tiến triển bệnh và tạo cho bệnh nhân cuộc sống tốt hơn.
Kiểm soát được các yếu tố nguy cơ đột quỵ sẽ giúp hạn chế SSTTMM
1. Tăng huyết áp, duy trì huyết áp tâm thu dưới 140mmHg (<160 cho bệnh nhân trên 60 tuổi) và huyết áp tâm trương dưới 90mmHg.
2. Xơ vữa mạch, phải điều trị rối loạn lipid máu đúng theo khuyến cáo để làm giảm bệnh mạch vành.
3. Không hút thuốc lá.
4. Kiểm soát đái tháo đường, cần duy trì đường máu ở mức 120-150mg/dl hay 6,99mmol/l.
5. Điều trị bệnh lý tim mạch thích hợp.
6. Không uống rượu.
7. Tránh stress.
8. Hoạt động thể lực đều đặn.
Điều trị tích cực đột quỵ có thể làm giảm triệu chứng suy giảm nhận thức và SSTTMM
Mục tiêu cơ bản trong điều trị giai đoạn đột quỵ cấp là làm thế nào để hạn chế tổn thương do đột quỵ gây ra và những biến chứng làm bệnh thêm trầm trọng, như viêm phổi, suy hô hấp, bệnh tim mạch hoặc thuyên tắc tĩnh mạch sâu. Áp dụng các kỹ thuật chăm sóc tích cực như đơn vị đột quỵ, can thiệp phẫu thuật khi có chỉ định. Hiện nay, việc sử dụng thuốc kháng đông và chống kết tập tiểu cầu là những chỉ định cơ bản của thiếu máu não cấp, bên cạnh việc dùng các thuốc ly giải cục máu đông như rTPA...
Có thuốc điều trị đặc hiệu suy giảm nhận thức và SSTTMM
Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu suy giảm nhận thức và SSTTMM, nhưng có một số thuốc đã được sử dụng điều trị chứng suy giảm nhận thức và SSTTMM.
Nhóm ức chế men cholinestarase
Hiệu quả của thuốc đã thể hiện qua các thử nghiệm lâm sàng như làm tăng điểm số hoạt động trí tuệ và hành vi ứng xử không phải trí tuệ khi so sánh với nhóm chứng. Thuốc đã được sử dụng khoảng 10 năm trước đây, hiện trên thị trường có một số thuốc ức chế sau:
- Tacrine là một acrinide, thuốc có nhiều tác dụng phụ, có thể gây độc cho gan, thận. Hiện nay không còn sử dụng nhiều.
-Donepezil (Aricept) là một thuốc ức chế men acetylcholinesterase để điều trị triệu chứng sa sút trí tuệ nhẹ và vừa. Thuốc làm chậm sự tiến triển của các triệu chứng sa sút trí tuệ.
- Rivastigmine là một carbamede có cơ chế tác dụng gần giống prostigmine, thuốc được sử dụng nhiều ở Mỹ, Canada, Pháp, Úc.
- Galantamine (Reminyl) là một phenentrene alkaloide, được sử dụng rộng rãi ở Mỹ và các nước bắc Âu.
Việc thử nghiệm những thuốc trên thường tiến hành từ 3-6 tháng và các phương pháp đánh giá gần giống nhau. Những thử nghiệm trên 1 năm là rất cần thiết để đánh giá tác dụng của thuốc.
Thuốc chống oxy hóa và loại bỏ gốc tự do
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy quá trình lão hóa có liên quan đến sự tạo ra các gốc tự do nội sinh. Vì vậy người ta sử dụng các thuốc có tác dụng chống lại sự phát triển của các gốc tự do như:
- Vitamine E, là tên chung của nhóm hợp chất tocopherol và tocotrienol tự nhiên, có thể ngăn chặn quá trình sản xuất hydrogen peroxide. Nó làm giảm beta-amyloid vùng hải mã. So sánh điều trị với nhóm chứng cho thấy có tác dụng cải thiện đáng kể nhận thức ở bệnh nhân sa sút trí tuệ.
- Duxil (almitrine + raubsine) có tác dụng trên PaO2 + và PO2 + trên mức sử dụng oxy não, do tăng áp suất riêng phần của oxy trong máu động mạch (PaO2) và tăng độ bão hòa oxy động mạch (SaO2). Vì thế duxil thường được sử dụng cho bệnh nhân suy giảm trí nhớ hoặc suy giảm nhận thức ở người cao tuổi kết hợp đột quỵ.
- Egb 761 (tanakan) và những chất chiết xuất từ lá cây Ginkgo biloba, gồm các hoạt chất chính là Flavonol, glycosides và terpene lactone. Trên nghiên cứu (invivo) ở người, các tác giả nhận thấy xảy ra một hoạt động mạnh mẽ đối kháng với gốc tự do và sự peroxyde hóa lipid các màng tế bào. Trên thực nghiệm lâm sàng, thuốc có tác dụng cải thiện nhận thức ở bệnh nhân nhẹ và trung bình.
- Piracetam là thuốc chống thoái hóa tế bào, hay còn gọi là thuốc dinh dưỡng (nootropic). Thuốc có tác dụng làm giảm nhận thức ở bệnh nhân SSTTMM, đã được biết có ảnh hưởng tốt đến quá trình học tập, tăng cường trí nhớ và ngôn ngữ. Thuốc còn được sử dụng sớm ở giai đoạn đột quỵ cấp.
- Hướng điều trị yếu tố dinh dưỡng thần kinh (Neurotrophic Factor): Đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới tiếp cận ở các khía cạnh khác nhau, từ vai trò sinh bệnh học cũng như điều trị. Yếu tố dinh dưỡng thần kinh hiện được biết đến với vai trò quan trọng trong cơ chế chống thoái hóa thần kinh hay chết tế bào theo chương trình (apotosis), trong đó có cerebrolysin hiện được sử dụng rộng rãi trên lâm sàng. Thuốc được dùng trong điều trị đột quỵ giai đoạn cấp và phục hồi chức năng.
Vấn đề chăm sóc bệnh nhân ngoài thăm khám lâm sàng, kê toa và phát thuốc, còn cần có sự nhìn nhận toàn diện về trạng thái sức khỏe bệnh nhân thông qua những người thân trong gia đình họ để hoạch định một chế độ điều trị lâu dài.