NGUYỄN ĐÌNH NGUYÊN

Tại sao bệnh Cúm không thanh toán được mà cũng không chữa được?

Nguyễn Đình Nguyên

Bệnh cúm đã được ông tổ của y khoa hiện đại-Hippocrate mô tả từ năm 420 tr.CN. Tuy nhiên chỉ cho đến cuối thế kỷ 16 thì đại dịch cúm ở người mới xuất hiện, và lần lượt sau đó gần như thế kỷ nào cũng có các trận đại dịch cúm xảy ra. Gần đây nhất, thể kỷ 20, nhân loại hứng chịu ba trận đại dịch cúm: 1918, 1957 và 1968. Khoa học y học hiện đại hiểu biết gần như rất rõ ràng về đặc tính sinh hoá học của vi-rút cúm, thế nhưng cho đến nay, bệnh cúm vẫn được coi là một bệnh không chữa được căn nguyên, chỉ điều trị triệu chứng và chúng ta cũng chưa thanh toán được bệnh cúm nếu không nói là không thể. Tại sao lại như vậy, hy vọng bài viết này giúp cho chúng ta hiểu biết rõ về loại vi-rút này để có thể “sống chung với lũ”.

 

Vi-rút cúm: cấu trúc và đặc điểm sinh học

Vi-rút được xếp trong nhóm các tác nhân gây nhiễm trùng, có cấu trúc rất rất nhỏ so với vi khuẩn, nên được gọi là siêu vi khuẩn hay vi-rút (từ âm tiếng Anh là virus). Cũng giống như các giống và loài khác, vi-rút cũng có nhiều loại dựa vào cấu trúc phân tử và mỗi loại cũng có nhiều phân nhóm nhỏ.

Vi-rút cúm là nhóm có cấu trúc di truyền chỉ có một nhánh đơn RNA chứ không phải nhánh kép DNA như vi khuẩn hoặc nhân tế bào các loại khác. Vi-rút cúm có nhiều phân nhóm nhỏ, giống như người có chủng tộc gốc Á, Âu, Phi…Phân nhóm này dựa vào cấu trúc kháng nguyên đặc trưng trên bề mặt của nó, như nước da màu tóc ở người. Có ba loại kháng nguyên bề mặt đặc trưng của vi-rút cúm đó là M1 (matrix), HA (hemagglutinin) và NA (neuraminidase).

Dựa vào sự khác biệt chính trên kháng nguyên M1 người ta phân vi-rút cúm thành ba nhóm A, B và C. Một điều cần biết, cho đến nay bằng chứng cho thấy rằng tất cả các dòng vi-rút cúm gây bệnh ở bất kỳ động vật nào, kể cả con người đều xuất phát từ loại thuỷ cầm và lông vũ (trong 10 giống loài khác nhau), và nhóm vi-rút cúm nguyên thuỷ đều là vi-rút thuộc nhóm A. Vi-rút nhóm B và C là loại tiến hoá từ A, và vi-rút B và C chỉ gây bệnh ở người mà không có gây bệnh cúm ở động vật; chỉ có rất hiếm một vài đợt lẻ tẻ, người ta tìm thấy vi-rút cúm C gây bệnh ở heo. Và theo sự tiến hoá đó, vi-rút cúm B và C gây bệnh cúm ở người rất nhẹ, nhẹ nhất là C, như gây ra chứng cảm thông thường, không có gì đáng kể. Chỉ có cúm A mới là loại có khả năng gây bệnh nặng.

Chính vì thế mà vi-rút cúm nhóm A được quan tâm và nghiên cứu nhiều nhất. Dựa trên đặc điểm cấu trúc của kháng nguyên HA và NA, người ta lại phân cúm A thành những phụ nhóm nữa: HA có 16 phụ nhóm và NA có 9 phụ nhóm. Về mặt lý thuyết, chúng ta có thể có 16 x 9 = 144 loại vi-rút cúm A khác nhau dựa vào phụ nhóm H và N, nhưng trên thực tế chưa có nhiều như vậy, tuỳ thuộc vào sự tiến hoá cũng như khả năng gây bệnh của nó. Tất cả 144 phân nhóm vi-rút A này đều có mặt ở chim, tuy nhiên chỉ có H1, H2, H3, H5, H7 và H9 và N1, N2 và N7 thì có thể lây nhiễm sang người, nhưng cho đến hiện nay chỉ còn có thể thấy H1, H2, H3 và N1 và N2 là còn tồn tại và biến thể lây nhiễm giữa người với người mà thôi. Đối với H5N1 chỉ mới cho thấy có khả năng lây trực tiếp giữa loài lông vũ và người, rồi dừng ở đó, chứ chưa có bằng chứng lây từ người này sang người khác.

Vi-rút cúm A loại đầu tiên được xác định đó là A(H1N1), và loại này được cho có nguồn gốc từ heo, nhưng cũng đã được nhiễm từ loại lông vũ (có chứa mầm bệnh không mắc bệnh) sang gây bệnh cho heo; từ heo nó chuyển sang lây cho người, thích nghi ở cơ thể người và lây cho nhau, tạo nên đại dịch cúm 1918. Sơ đồ dưới đây cho thấy sự tiến hoá của vi-rút A. Và như thế trong quá trình tiến hoá đó, có thể có loại mới sinh ra nhưng cũng có loại cũ mất đi, không còn tồn tại nữa, ví dụ như vi-rút A(H3N2)- tác nhân gây đại dịch cúm 1968, hiện không còn tìm thấy. H2N2 là tác nhân gây đại dịch cúm 1957, H1N1 thì từ lúc xuất hiện cho đến nay vẫn tồn tại, nhưng lại thay đổi chút ít về bề mặt, có nghĩa là vẫn thuộc phụ nhóm H1N1, nhưng nó khác đi nhiều, ví như cũng một con người đó, nhưng họ thay đổi thời trang khác nhau theo thời gian.

Một đặc điểm đáng lưu ý nhất của vi-rút cúm nhóm A là khả năng biến đổi đặc tính của H và N rất nhanh, dù dưới một tác động rất ít.

Vi-rút cúm nhóm A có sự giao lưu giữa các loại khác nhau, nhưng chủ yếu là giữa ba loài: nguồn chính là thuỷ cầm và lông vũ. Vi-rút A từ loại này có thể nhảy sang thích nghi và gây bệnh trực tiếp cho heo hoặc cho người (cúm gia cầm); từ heo lây sang người, nhưng chưa có bằng chứng thấy có sự lây ngược giữa người với chim và heo với chim; có bằng chứng cho thấy có thể vi-rút cúm cũng lây ngược từ người sang heo.

Và như vậy, cơ thể heo gần như là một nhà máy trung gian, tiếp nhận vi-rút cúm cả từ loài thuỷ cầm, lông vũ và người vào cơ thể của nó,  rồi từ đó nó trộn lẫn, giao chéo sinh ra dòng vi-rút cúm A mới, kể cả cùng phân nhóm hay khác phân nhóm.

 

Tại sao không thể thanh toán được bệnh cúm?

Cơ thể con người khi bị nhiễm trùng, có một cơ chế bảo vệ đặc hiệu, để sao cho lần sau nhiễm bệnh đó trở lại hoặc không phát bệnh hoặc nhẹ đi, gọi là quá trình tạo miễn dịch và được miễn dịch. Thí dụ như khi người ta bị nhiễm vi trùng lao lần đầu, cơ thể có thể bị bệnh hoặc không, nhưng cơ thể có khả năng nhận dạng vi trùng lao và sản sinh ra một chất gọi là kháng thể chống lại vi trùng lao này. Lần thứ hai vi trùng lao thâm nhập lại, thì các kháng thể này sẽ ra “chiến đấu” và tiêu diệt vi trùng lao, giúp cho cơ thể không bị bệnh hoặc nếu có cũng nhẹ.

Dựa trên nguyên lý miễn dịch này mà chúng ta tạo ra vaccine, tức là chủ động cho cơ thể tiếp xúc với loại vi trùng gây bệnh trước chỉ ở mức độ nhẹ, hay chỉ cho tiếp xúc với kháng nguyên của vi trùng đó thôi, cơ thể tạo sẵn cho mình kháng thể, rồi lần nhiễm thứ hai sẽ không bị hoặc bị nhẹ.

Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, đối với một loại vi trùng nào có cấu trúc bền vững, và ổn định, thì chúng ta chỉ cần cho chích vaccine một lần thôi, lần sau vi trùng đó vào cơ thể là chết ngay, rồi sau đó không còn nơi để cư trú nữa, và tiệt chủng. Trên thế giới, vi khuẩn loại này rất ít, chỉ có thể có đó là đậu mùa, bại liệt. Đó là lý do tại sao thế giới đã thanh toán được bệnh đậu mùa từ 1979 và đang tiến tới thanh toán bệnh bại liệt.

Trong khi đó, các vi trùng còn lại, sau một lần vào cơ thể, bị cơ thể đánh “tơi bời” chúng sẽ tìm cách thích nghi để tồn tại, bằng cách phải thay hình đổi dạng, như vậy dù cơ thể có kháng thể rồi, nhưng lần xâm nhập sau con vi trùng đã khác, cơ thể chúng ta không kịp nhận dạng được nó, chúng ta lại bị bệnh mặc dù đã tiêm phòng.

Như đã nói trên, vi-rút cúm A là một loại vi-rút cúm có khả năng thay hình đổi dạng và thích nghi rất nhanh, mỗi mùa mỗi năm chúng hiện diện ở một hình thức khác của cùng một phân nhóm hoặc một phân nhóm khác. Cùng một loại H1N1 nhưng ở địa dư khác nhau, nó cũng khác nhau. Thí dụ A/Memphis/8/88(H3N2), có nghĩa là vi-rút cúm A(H3N2) nhưng tìm được ở Memphis (Mỹ), gắn nhãn số 8, và phát hiện vào năm 1988. Cho nên, dù chúng ta có sản xuất ra bao nhiêu loại vaccine cúm đi nữa, chúng ta cũng chỉ dự đoán chứ không thể biết trước được mùa cúm (đông xuân) năm sau loại cúm A nào sẽ hiện diện trong hằng hà sa số phân nhóm cúm A. May lắm là chúng ta có thể tạo được một lượng kháng thể có thể đối kháng một phần nào đó khi vi-rút cúm xâm nhập hoặc vi-rút có cấu trúc tương đồng, thì cơ thể có thể không mắc bệnh hoặc bị nhẹ. Một khó khăn nữa là ngay cả chúng ta chế và sử dụng vaccine, đó lại là một nguy cơ kích thích cho con vi-rút cúm A nó biến đổi nhanh lẹ hơn và có thể chuyển sang dạng nguy hiểm hơn, nhưng cũng có thể nhẹ hơn để cùng tồn tại như vi-rút cúm B và cúm C chẳng hạn.

Xét về mặt nghiêm trọng nó hoàn toàn phụ thuộc vào sự ổn định hay biến đổi của kháng nguyên bề mặt này của con vi-rút cúm. Vi-rút cúm B và C là loại tiến hoá “cao cấp” nhất và đã ổn định, chỉ lây bệnh ở người nên con người đã quen và có kháng thể đẻ chống lại nó, nên có nhiễm cũng chỉ nhẹ qua loa.

Với đặc tính biến đổi liên tục, nên vi-rút cúm A luôn tránh được sự đề kháng của vật chủ, và nếu là loại mới xuất hiện và gây bệnh ở người thì mức độ sẽ nặng.

Như vậy nếu một loại vi-rút cúm A dòng mới-chưa từng thấy trước đây xuất hiện, thích nghi được ở người, lây lan giữa người và người, tiến đến lan rộng, là một nguy cơ đại dịch và khi đó cảnh báo đại dịch được phát động.

Một chủng mới của tác nhân gây đợt dịch cúm nặng đang hoành hành ở Mê-hi-cô, Mỹ và 13 quốc gia khác trong dòng H1N1 kỳ này là vi-rút A/Veracruz/2009(H1N1), tức là vi-rút này nhóm A, mới phát hiện vào năm 2009 lần đầu tiên ở Veracruz (Mê-hi-cô) thuộc nhóm H1N1 (gọi tắt là V09, theo quy định của giới vi-rút học). Hơn nữa H1N1 này là chủng cúm có nguồn gốc từ heo, đã tiến hoá thành các dòng gây bệnh riêng biệt cho người, heo và chim chóc. Tuy nhiên, với H1N1 này, người ta tìm thấy có sự tích hợp giữa gen của kháng nguyên HA giống với vi-rút ở heo tại Mỹ năm 1999, còn cấu trúc NA và M1 lại giống với vi-rút gây bệnh cho heo ở Âu châu. Chính vì loại vi-rút mới mẻ này mà chúng ta đang đứng trước một nguy cơ đại dịch toàn cầu.

Vì lẽ đó, cho đến nay khoa học vẫn còn chịu bó tay trước các đợt cúm hàng năm, cứ đến hẹn lại lên, không nặng thì nhẹ nhưng không có cách nào ngăn cản được, chỉ cố gắng giảm thiểu mức nguy hại của chúng mà thôi.

 

Tại sao bệnh cúm không trị được?

Không chỉ chúng ta không thể trị được bệnh cúm ở người mà các loại bệnh do vi-rút nói chung gây nên, khoa học đều “bó tay”. Cần biết qua cơ chế tấn công của vi-rút vào vật chủ- như người để hiểu được lý do này.

Đối với vi khuẩn, khi vào cơ thể chúng lưu thông theo tuần hoàn, hoặc sinh sôi nảy nở ở đó hoặc cư trú vào một cơ quan hay một nơi nào đó trong cơ thể để sinh sôi nảy nở và với một số lượng nhất định nào đó sẽ gây bệnh thông qua việc phóng thích độc tố hay tiêu hao chất liệu sống của cơ thể. Kháng sinh được điều chế có tác dụng khi đưa vào cơ thể sẽ lưu thông trong máu hoặc được đưa đến đúng nơi có vi khuẩn trú ngụ, tại đó kháng sinh có thể diệt vi khuẩn (gọi là kháng sinh có tác dụng diệt khuẩn) hay kiềm hãm sự phát triển của vi khuẩn (kháng sinh kiềm khuẩn), có loại có tác dụng cả hai. Như thế, vi khuẩn sẽ bị tiêu diệt hay bị bất hoạt, cơ thể sẽ dần hồi phục và khỏi bệnh.

Quy trình vi-rút tấn công, xâm nhập vào tế bào người, nhân lên và tạo vi-rút mới

Ngược lại, vi-rút (hay siêu vi khuẩn) có cơ chế phát triển trong cơ thể vật chủ hoàn toàn khác với vi khuẩn. Vi-rút cúm xâm nhập qua đường mũi họng và tấn công vào cơ thể người hay vật vào đường hô hấp trên. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, vi-rút không sinh sôi ngay trong dòng máu hay tại một nơi nào đó, mà từng con một, đến gắn vào màng tế bào, với vi-rút cúm A là các tế bào của hệ hô hấp. Sau đó chúng mới đục lỗ các màng tế bào của người và phóng thích cái nhân RNA của mình, gửi vào tế bào người. Tất cả đồng loạt như vậy. Sau khi gửi nhân vào tế bào người rồi, thì nhân này mới sinh sôi nảy nở trong lòng từng tế bào của người, rồi lại phát tán ra bên ngoài. Với một cơ chế tấn công quá đặc biệt như vậy, chúng ta không có cách nào trị được chúng cả. Vì một lẽ đơn giản thuốc dùng phải diệt hoặc kiềm hãm được vi rút, mà chúng lại trốn cả ở trong tế bào của con người, và chúng ta không thể diệt tế bào của mình để giết con vi rút, giống như “ném chuột vỡ lọ cổ” vậy!

Câu hỏi được đặt ra là tại sao vẫn có thuốc trị vi rút, vậy nó hoạt động như thế nào? Thực sự là không có thuốc trị hay diệt được vi-rút mà chỉ có kiềm hãm khả năng tăng sinh của vi-rút sau khi chui vào tế bào của cơ thể mà thôi.

Như đã đề cập ở trên, cấu trúc bề mặt vi-rút cúm có ba loại kháng nguyên: M1, H và N.

Kháng nguyên M1 có tác dụng gắn các phân đoạn di truyền của vi-rút; HA đóng vai trò kết gắn vi-rút vào các thụ thể (receptors) của vật chủ (người) và hoà vào màng tế bào của vật chủ để tiến hành chu kỳ nhân bản. Còn NA thì được cho rằng có vai trò giải phóng các thế hệ vi-rút con cháu đó ra khỏi các tế bào của vật chủ và trợ giúp cho các vi-rút có thể xâm nhập được vào lớp màng bọc ở các tế bào biểu mô hô hấp.

Dựa vào đặc tính này mà các thuốc chống vi-rút được sản xuất. Hiện nay trên thị trường có hai nhóm chính, nhóm thuốc có tác dụng ức chế M1. Nhưng loại này rất dễ bị vi-rút cúm A kháng lại, không những vậy mà chúng còn có khả năng tạo ra một gen đề kháng với thuốc này di truyền lại cho thế hệ con cháu. Do đó loại thuốc được cho là có tác dụng nhât đối với vi-rút cúm nhóm A hiện nay là loại ức chế NA, đó là ra zanamivir có biệt dược là Relenza (loại hít vào mũi) và oseltamivir có biệt dược là Tamiflu (viên uống). Chính vì có khả năng ức chế NA, nên chúng ức chế sự tăng sinh của vi-rút trong cơ thể người bệnh.

Nhưng như đã đề cập, thuốc chỉ có tác dụng khi vi-rút mới xâm nhập vào cơ thể, thời gian đó chỉ diễn ra khoảng 48-72 giờ đầu, khi vi-rút chưa chui vào trong tế bào của người. Nhưng đó lại là thời gian ủ bệnh, tức là người bệnh chưa có triệu chứng gì cả, không thể biết mà uống thuốc được. Khi người bệnh bắt đầu ho, sốt, sổ mũi thì khi đó, gần như vi-rút đã xâm nhập vào trong tế bào rồi, mới bắt đầu uống thuốc thì mức độ tác dụng của nó không còn nữa.

 

Thuốc chống vi-rút Tamiflu và Relenza có ngăn ngừa được đại dịch không?

Câu trả lời là chưa có bằng chứng. Tên gọi đại dịch cúm là để nói lên tầm vóc nguy hiểm của nó ở chỗ nó có thể gây tử vong ở số lượng lớn, trên nhiều quốc gia trong một thời gian ngắn.

Cho đến nay, tất cả các nghiên cứu cho thấy rằng Tamiflu chỉ có tác dụng làm giảm triệu chứng và có khả năng rút ngắn ngày bị bệnh hơn là làm giảm bớt độ nguy kịch của triệu chứng. Dùng Tamiflu không làm giảm được số lượng bệnh nhân tử vong do cúm A so với người không dùng, trong khi đó mục đích chặn đại dịch cúm là làm giảm số lượng tử vong do cúm. Hơn nữa, sử dụng Tamiflu cũng cho thấy không có hiệu quả kinh tế trên bình diện quốc gia. Cho nên, Tamiflu chỉ được chỉ định cho một số bệnh nhân nào đó chứ không thể sử dụng đại trà, không dùng để phòng ngừa, vì có thể sinh kháng thuốc. Đã có bằng chứng cho thấy vi-rút cúm A(H1N1) kháng lại Tamiflu, đặc biệt dòng H1N1 gây bệnh ở châu Âu. Và rõ ràng, cũng không nên coi nặng Tamiflu là phương tiện cứu cánh để ngăn ngừa một vụ đại dịch.

Vaccine cho loại cúm mới xuất hiện không thể có sớm được, mà cần phải có thời gian. Trong khi đợi được một loại vaccine mới ra đời thì có thể con vi-rút cúm A đã thay hình đổi dạng rồi. Nhưng nhiều chuyên gia cho rằng ít ra cũng tạo được một sự đề kháng nào đó đối với vi-rút cúm A dù không phải đúng loại. Tuy nhiên, cũng phải nghĩ đến một khả năng kích thích cho vi-rút cúm biến đổi sớm hơn.

Ngăn ngừa bị nhiễm cúm và ngăn ngừa đại dịch cúm nó hoàn toàn phụ thuộc vào phương pháp phòng bệnh nhiễm trùng căn bản. Đó là phát hiện sớm, cách ly người bệnh, xử trí hạn chế lây lan trong cộng đồng. Thực hành vệ sinh cá nhân, đặc biệt rửa tay sạch sẽ bằng xà phòng, không nên có thói quen đưa tay lên vuốt mặt hay ngoáy mũi. Giữ chế độ sinh hoạt lành mạnh, tăng cường sức khoẻ thể lực, chế độ ăn uống bổ dưỡng là biện phóng phòng bệnh cá nhân tốt nhất và ngăn ngừa đại dịch tốt nhất.

06/05/2009

Nguyễn Đình Nguyên

 

 


"Ngộ độc " (nước) củ dền - nỗi oan Thị Kính - BS Nguyễn Đình Nguyên
5/6 mẫu thử nghiệm phân và thịt chó có nhiễm phẩy khuẩn Tả, rồi sao nữa?
Biểu tượng của ngành Y khoa -BS  Nguyễn Đình Nguyên
CHUỘT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC
Chứng bệnh Bất toàn trong Tạo sinh xương (Osteogenesis Imperfecta)
Chứng bệnh Bất toàn trong Tạo sinh xương (Osteogenesis Imperfecta)
Các biện pháp trước mắt để làm giảm nồng độ 3-MCPD trong sản phẩm nước tương chế biến bằng phương pháp thuỷ phân
Cúm lợn và những điều cần biết
Cúm lợn: Hướng dẫn thực hành và Tài nguyên thông tin dành cho bác sĩ lâm sàng
Cần phải tập trung vào việc khử trùng môi trường, nguồn nước uống và sinh hoạt
Di sản của chiến tranh: Thêm bằng chứng về mối quan hệ giữa chất độc Da cam và dị tật bẩm sinh
Dinh dưỡng và tuổi Vị thành niên
Dịch cúm chim ở gia cầm - Vấn đề cần nhìn lại - Nguyễn Đình Nguyên
Dịch Tả có phải do ăn mắm tôm?
Giải pháp nào cho vấn đề "Tiền mất tật mang"?
Giải pháp nào cho vấn đề “Tiền mất tật mang”? - Nguyễn Đình Nguyên
HIỆN TƯỢNG “THỤT DẦU”
Hướng dẫn an toàn thực phẩm trong gia đình
Hướng dẫn việc tìm kiếm thông tin sức khoẻ trên hệ thống thông tin liên mạng (internet)
Hướng dẫn việc tìm kiếm thông tin sức khoẻ trên hệ thống thông tin liên mạng (internet) - BS Nguyễn Đình Nguyên (Úc)
Khiêu vũ và chóng mặt
Khoa học thiếu thông tin và thông tin thiếu khoa học
Lentine và sức khỏe con người
Lạm bàn về chuyện quản lý dược phẩm - Nguyễn Đình Nguyên
Lợi ích của bũa ăn điểm tâm sáng - BS Nguyễn Đình Nguyên
Mập mới khỏe: Sai lầm từ quan niệm
Một số câu hỏi thông thường của bệnh tiêu chảy do Tả
NGUYEN DINH NGUYEN
Ngộ độc (nước) củ dền - nỗi oan thị kính
Nhân hai trường hợp tử vong do tiêm kháng sinh loại ceftriaxone tại BV Đa khoa Tây ninh
Phân tích cấu trúc di truyền DNA: ứng dụng trong Y pháp nhận dạng - BS NGUYỄN ĐÌNH NGUYÊN
Phương pháp chuẩn để kiểm định 3-MCPD trong nước tương và các sản phẩm nước tương có gia hương vị hoặc các nước chấm làm từ đậu nành ở New Zeland - Nguyễn Đình Nguyên
Phản hồi của Nguyễn Đình Nguyên về ý kiến của Phạm Văn Linh “Đâu phải là thiếu cơ sở khoa học”
Sữa và Nuôi dưỡng trẻ em bằng sữa
Tai biến hôn mê sau gây tê kết hợp tuỷ sống-ngoài màng cứng: Một báo cáo lâm sàng đầu tiên trên thế giới
Tai biến liệt mặt sau một phẫu thuật có gây mê
Thuốc rẻ cho người nghèo
Thông báo khẩn cấp của FDA đối với người tiêu dùng ở Mỹ về sản phẩm kem đánh răng nhập khẩu từ Trung quốc - Nguyễn Đình Nguyên
Tranh luận giữa nhà khoa học hàng đầu Việt Nam và Mỹ
Tác dụng của chiếc Khẩu trang I
Tác dụng của chiếc Khẩu trang II
Tác dụng của chiếc Khẩu trang III
Tại sao bệnh Cúm không thanh toán được mà cũng không chữa được?
Tản mạn về về bài viết “Không được tuỳ tiện phát ngôn tiêu cực về chống dịch tiêu chảy” của tác giả Nguyễn Văn Dũng
Ung thư tuyến tiền liệt làm tăng nguy cơ gãy xương - BS Nguyễn Đình Nguyên
Vaccine phòng chống cúm gia cầm A(H5N1) ở người, hứa hẹn?
Vài nét về Vi rút Cúm lợn (heo) (Swine influenza virus)
Vàng nhân não: Biến chứng nguy hiểm ở trẻ sơ sinh, nhưng có thể phòng ngừa được
Vì  sức khỏe người dân hay vì  sợ dư luận?
Vắc-xin kết hợp ngừa đa bệnh MMR-II: tiêm dưới da hay tiêm bắp
Về Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi
Về quyết định “Hướng dẫn xử lý tiêu hủy mắm tôm ô nhiễm mầm bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm” của Bộ Y tế
Về đợt dịch Tả: “Quan cần nhưng dân chưa vội”, nhưng “xin đừng vội trách đa đa”
Đo thân nhiệt (nhiệt độ) cho trẻ- thiết bị hiện đại có phải lúc nào cũng hữu ích? - BS Nguyễn Đình Nguyên
Đu đủ và thai nghén_ sự thật hay truyền thuyết?
Đu đủ và thai nghén_ sự thật hay truyền thuyết? - BS Nguyễn Đình Nguyên
Đánh giá nguy cơ tác hại của thành phần 3-MCPD trong thực phẩm lên sức khoẻ con người
Đã tìm ra thêm một phương thức điều trị cúm A H5N1 ở người?
Định mức 3-MCPD an toàn nào được đặt ra cho sản phẩm nước tương?
Đổi tên “Cúm Heo”, thương thay thân phận Con Gà!


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn