NGUYỄN ĐÌNH NGUYÊN

Vaccine phòng chống cúm gia cầm A(H5N1) ở người, hứa hẹn?

Nguyễn Đình Nguyên 
 

Trong vài tuần qua, dư luận thông tin báo chí nhóm lên một hy vọng về sự thành công chế tạo vaccine chống A(H5N1) ở người. Thế nhưng mãi cho đến một tuần sau, vừa mới hôm 30 tháng 3 này, Tập san chuyên ngành Y khoa nổi tiếng thế giới New England J Med, của Mỹ mới đăng tải nghiên cứu (mà thông tin báo chí đề cập) của các chuyên gia Mỹ (xin đính chính là công trình của các khoa học gia Mỹ, vì có một số thông tin báo chí đưa là công trình của các khoa học gia Pháp), về việc đã thử nghiệm được một loại vaccine chống lại cúm AH5N1 (1) mà chúng ta hay gọi là cúm gia cầm. Vaccine này do một công ty dược của Pháp làm chủ (Sanofi-Aventis) nhưng cấp giấy phép sản xuất cho Mỹ (vì vậy mà dễ nhầm là do các khoa học gia Pháp chế tạo).

Thứ nhất: Đây là một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, với mục đính xác định khả năng tạo kháng thể miễn dịch trên cơ thể người cho một loại vaccine được chế xuất từ mầm bệnh là: chủng virus A(H5N1) được tái sinh trong phòng thí nghiệm, bằng cách lấy đoạn mã cho kháng nguyên bề mặt Hemagglutinin và Neuraminidase từ virus cúm chủng AH5N1 được phân lập từ 2004 ở Việt Nam: A/Vietnam/1203/2004. Sau đó, mã di truyền này được cấy trên lại một chủng virus phòng thí nghiệm thông thường hay dùng để chế vaccine cúm, để tạo ra một dòng virus mã số là rgA/Vietnam/1203/2004xA/PR/8/34. Sau đó virus này được qua một quá trình xử lý trong phòng thí nghiệm để làm mất độc tính gây bệnh nhưng vẫn giữ nguyên đặc tính sinh học là có đặc tính kháng nguyên bề mặt giống hệt như virus A(H5N1) đã lấy mẫu.

Tóm lại: Vaccine được chế xuất này là một loại virus tái tạo theo công thức di truyền của AH5N1 chủng Việt nam 2004, và được khử độc tính, chuyên môn gọi là vaccine làm từ mầm bệnh bất hoạt tính.

Mục đích của nghiên cứu: Thử nghiệm khả năng tạo kháng thể kháng lại kháng nguyên bề mặt loại virus tái sinh bất hoạt tính này và thử nghiệm độ an toàn sinh học khi dùng.

Để trả lời cho câu hỏi này, các nhà khoa học tiến hành làm một thử nghiệm lâm sàng trên 451 người, chia làm hai nhóm dùng vaccine (401, chia làm 4 nhóm nhỏ dùng 4 liều khác nhau: 90mcg, 45mcg, 15mcg và 7.5mcg) và 48 người không dùng vaccine.

Những người này là những người khoẻ mạnh (không có bệnh gì từ trước đến nay, không mắc bệnh gì hiện tại) từ 18-64 tuổi được mời tình nguyện tham gia.

Những người dùng vaccine được dùng làm hai lần cách nhau 28 ngày.

Đặc điểm trong quá trình nghiên cứu:

Ngay thời điểm trước khi cho dùng vaccine, tất cả mọi đối tượng đều được đo nồng độ kháng thể chống AH5N1 ở đây là kháng thể kháng H và N. Theo lý thuyết thì tất cả phải đều âm tính. Thế nhưng, một sự kiện mà chính các tác giả cũng không giải thích được (nêu trong phần bàn luận của nghiên cứu) đó là có 15 đối tượng thì dương tính với thử nghiệm ức chế kháng thể H và có 12 người có dương tính với thử nghiệm vitrung hoà là hai xét nghiệm đánh giá mức độ đáp ứng kháng thể có dương tính trong trường hợp dùng vaccine, nếu vaccine đó được coi là hiệu nghiệm. Có nghĩa là, chưa dùng vaccine mà cũng đã có đến 27 người có hiệu ứng như đã dùng vaccine rồi. Điều này chúng tôi sẽ nhận xét sau khi nêu kết quả.

Kết quả nghiên cứu là gì?

Trong lô khoảng 400 người được dùng vaccine đó, thì chỉ có nhóm gần 100 người dùng vaccine liều cao (90mcg) thì chỉ có một nửa trong số họ (cho là 50 người) mới cho thấy có đáp ứng tạo kháng thể miễn dịch ở một mức độ được tin là có thể chống lại được AH5N1 chủng này.

Số còn lại thì không đạt được chuẩn độ kháng thể theo ý muốn nhưng cho thấy có xu hướng nồng độ kháng thể tạo được phụ thuộc vào liều lượng vaccine sử dụng.

Chúng tôi không thấy các tác giả nghiên cứu bình luận gì về 27 trường hợp đã có (+) với xét nghiệm ngay từ trước khi dùng vaccine cả!

Kết quả còn cho thấy những người dùng vaccine có những phản ứng phụ như đau tại chỗ tiêm, đau cơ, đau đầu, sốt nhẹ, buồn nôn nhưng nói chung không nghiêm trọng.

Co ghi nhận được một trường hợp tử vong ngay sau khi dùng liều vaccine đầu (45mcg) 24 ngày trong giai đoạn nghiên cứu, và được xác định là tử vong do gan bị tổn thương theo kiểu nhiễm độc rượu mãn tính (tiền sử bệnh nhân có nghiện rượu). Do vậy các tác giả cho rằng trường hợp tử vong này là ngẫu nhiên mà không phải do dùng vaccine.

Nhận xét:

  1. Hiệu quả ứng dụng của nghiên cứu?

Như mục tiêu nghiên cứu các tác giả đặt ra là mới thử nghiệm khả năng kích thích tạo ra kháng thể chống lại một chúng AH5N1.

Kết quả chỉ mới dừng lại khiêm tốn là chỉ có 1 nửa trong số nhóm được dùng liều cao nhất (gấp 8-15 lần so với một liều vaccine chống cúm thông thường), hay nói rõ hơn là chỉ có 12.5% số người được dùng vaccine là có thể tạo ra được một lượng kháng thể mà với sự tin tưởng của các nhà khoa học là có thể chống lại được virus chủng này.

Thế nhưng, cần phải biết một thực tế là ngay từ đầu, dù chẳng được dùng vaccine gì thì cũng đã có 27 người có xét nghiệm cũng dương tính tức là cũng được coi như là có khả năng chống lại virus trên lý thuyết nhưng trên thực tế những người này không thể. Như vậy xét nghiệm này ngay từ đầu đã cho một kết quả dương tính giả.

Một điều khá ngạc nhiên là các tác giả không báo cáo lại những người này sau đó làm lại xét nghiệm thì nồng độ kháng thể như thế nào?

Từ hai điều đó cho chúng ta một suy luận hệ quả, ngay cả trong số 12.5% số người có xét nghiệm dương tính đó cũng sẽ có một số dương tính giả, tức là xét nghiệm cho là có thể hiệu quả nhưng trên thực tế thì có lẽ không, bao nhiêu? Chúng ta chưa có câu trả lời.  Dĩ nhiên có dương tính giả thì cũng sẽ có âm tính giả, con số này chúng ta cũng kô biết.

2- Chúng ta cũng nên nhớ lại như đề cập ở trên, xét nghiệm dương tính hay âm tính không phụ thuộc vào đặc tính đáp ứng sinh học tức là không phải cho những người này nhiễm virus rồi đánh giá hiệu quả. Mà kết quả đó là chỉ là một sự ước đoán. Tuy nhiên vấn đề thử nghiệm cho tiếp xúc với mầm bệnh A(H5N1) là một việc không thể tiến hành được vì lý do đạo đức.  Thế thì nên hiểu giá trị ứng dụng của vaccine này như thế nào?

Lấy một thí dụ đơn giản: Một nhóm học trò đến học cua thầy giáo luyện thi đại học, thầy giáo này có kinh nghiệm và tin rằng bài kiểm tra cuối cùng của mình có một khả năng dự đoán được kết quả thi đại học của học sinh mình. Ông cho rằng hễ cậu nào được 7 điểm bài kiểm tra của tôi, thì cậu đó có thể đậu đại học. Nhưng việc các cậu học trò đó có đậu đại học hay không thì phải đợi kết quả thi đại học báo về trước đã. Cần phải nhớ rằng trước khi luyện thi ông thầy giáo này đã tuyển lựa một số em học sinh đã phải đạt mức khá rồi. Trong số đó ông dạy các em theo một trình độ khác nhau tuỳ thuộc vào túi tiền của các em.

Câu chuyện vaccine ở đây hoàn toàn như vậy, có thể xem một bảng so sánh sau

    Vaccine A(H5N1) Bài giảng thầy giáo dạy thêm
    451 người khoẻ mạnh thử nghiệm 451 học sinh có trình độ khá
    102 người dùng liều cao (90mcg) 102 học sinh trả tiền cao nhất, làm bài nhiều nhất (a)
    98 người dùng liều 45mcg 98 học sinh được cho một nửa bài tập của nhóm (a)
    101 người dùng liều 15mcg 101 học sinh có 1/6 lượng bài tập so với nhóm (a)
    100 người dùng liều 7.5mcg

    (liều cao chuẩn cho vaccine cúm thông thường là có hiệu quả tạo kháng thể)

    100 học sinh có 1/12 lượng bài tập của nhóm (a)

    Trình độ chuẩn trung bình để có thể làm bài kiểm tra cuối đợt của thầy được 7 điểm (giả định là điểm chuẩn)

    48 người không dùng vaccine 48 học sinh đến học nhưng chỉ tự làm bài của mình, thầy không dạy
    Kết quả:  
    50/102 người dùng liều cao nhất tạo được một lượng kháng thể mà nhóm nghiên cứu tin rằng có thể chống lại được virus A(H5N1) 50/102 số học sinh trả tiền nhiều, được học nhiều nhất đạt được điểm 7 bài kiểm tra sau cùng của thầy giáo trước khi đi thi ĐH, mà thầy giáo tin rằng nếu được 7 điểm của thầy thì sẽ đậu đại học.
    Khả năng chống A(H5N1) thực thụ? Học sinh đậu đại học?
    ?? ??
    Chờ đợi Chờ kết quả thi ĐH
 

Nhìn vào bảng so sánh trên đây, dù không nên nhưng nó hoàn toàn chung ngữ cảnh  thì cho chúng ta thấy rằng con đường từ vaccine thực nghiệm này đến sử dụng trong cộng đồng còn khá nhiều khâu phải giải quyết. Vì “những cậu được thầy giáo tuyển lựa vào lớp của mình là những cậu học sinh khá giỏi, và chỉ có một số nhỏ thôi, không phải đại trà trên cộng đồng, còn lại chỉ cho 1/5 là lấy ngẫu nhiên. Thì cũng chỉ có 12.5 phần trăm trong số khá giỏi đó đạt được điểm 7 mà thôi, 12.5 % đó là những cậu nhà thật giàu” Nó tương đương với câu chuyện vaccine là phải dùng thuốc liều rất cao, mà chỉ là trên nhóm người thử nghiệm khoẻ mạnh.

Trở lại câu chuyện vaccine, Vậy liệu vaccine này được đưa ra ngay dùng cho cộng đồng chưa, câu trả lời rõ ràng là chưa được. Vì nó chỉ còn trong vòng nghiên cứu, trên số ít những người khoẻ mạnh, còn công đồng chung, những người dễ nhiễm bệnh thì yếu hơn và mức độ đáp ứng miễn dịch sản xuất kháng thể có thể yếu hoặc khác hơn nhiều so với nhóm nghiên cứu

Với một liều cao như vậy thì liệu có thực tế cho cộng đồng thế giới hay không? Câu trả lời là không?

Điều mấu chốt hơn cả mà chúng ta cần phải biết là đây mới chỉ là một sự thử nghiệm ban đầu cho một loại vaccine đối với một chủng virus có thể đã cũ (2004), mà ta biết rằng virus nhóm A là virus có khả năng thay đổi cấu trúc nhanh chóng và không lường trước được, chính vì vậy mà năm nào chúng ta cũng phải dùng vaccine ngừa cúm, và mỗi năm chủng loại đều thay đổi.

Cho nên tóm lại, chúng ta chỉ nên nhìn nhận thông tin về loại vaccine mới chống AH5N1 này hết sức thận trọng, có lẽ nó chỉ nên lưu hành nội bộ trong giới chuyên môn là hơn vì nó còn đang trong giai đoạn nghiên cứu, chứ chưa có hứa hẹn gì áp dụng cho cộng đồng trong nay mai cả.

NDN

1. Treanor JJ, Campbell JD, Zangwill KM, Rowe T, Wolff M. Safety and immunogenicity of an inactivated subvirion influenza A (H5N1) vaccine. N Engl J Med. 2006 Mar 30;354(13):1343-51. 

 


"Ngộ độc " (nước) củ dền - nỗi oan Thị Kính - BS Nguyễn Đình Nguyên
5/6 mẫu thử nghiệm phân và thịt chó có nhiễm phẩy khuẩn Tả, rồi sao nữa?
Biểu tượng của ngành Y khoa -BS  Nguyễn Đình Nguyên
CHUỘT VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC
Chứng bệnh Bất toàn trong Tạo sinh xương (Osteogenesis Imperfecta)
Chứng bệnh Bất toàn trong Tạo sinh xương (Osteogenesis Imperfecta)
Các biện pháp trước mắt để làm giảm nồng độ 3-MCPD trong sản phẩm nước tương chế biến bằng phương pháp thuỷ phân
Cúm lợn và những điều cần biết
Cúm lợn: Hướng dẫn thực hành và Tài nguyên thông tin dành cho bác sĩ lâm sàng
Cần phải tập trung vào việc khử trùng môi trường, nguồn nước uống và sinh hoạt
Di sản của chiến tranh: Thêm bằng chứng về mối quan hệ giữa chất độc Da cam và dị tật bẩm sinh
Dinh dưỡng và tuổi Vị thành niên
Dịch cúm chim ở gia cầm - Vấn đề cần nhìn lại - Nguyễn Đình Nguyên
Dịch Tả có phải do ăn mắm tôm?
Giải pháp nào cho vấn đề "Tiền mất tật mang"?
Giải pháp nào cho vấn đề “Tiền mất tật mang”? - Nguyễn Đình Nguyên
HIỆN TƯỢNG “THỤT DẦU”
Hướng dẫn an toàn thực phẩm trong gia đình
Hướng dẫn việc tìm kiếm thông tin sức khoẻ trên hệ thống thông tin liên mạng (internet)
Hướng dẫn việc tìm kiếm thông tin sức khoẻ trên hệ thống thông tin liên mạng (internet) - BS Nguyễn Đình Nguyên (Úc)
Khiêu vũ và chóng mặt
Khoa học thiếu thông tin và thông tin thiếu khoa học
Lentine và sức khỏe con người
Lạm bàn về chuyện quản lý dược phẩm - Nguyễn Đình Nguyên
Lợi ích của bũa ăn điểm tâm sáng - BS Nguyễn Đình Nguyên
Mập mới khỏe: Sai lầm từ quan niệm
Một số câu hỏi thông thường của bệnh tiêu chảy do Tả
NGUYEN DINH NGUYEN
Ngộ độc (nước) củ dền - nỗi oan thị kính
Nhân hai trường hợp tử vong do tiêm kháng sinh loại ceftriaxone tại BV Đa khoa Tây ninh
Phân tích cấu trúc di truyền DNA: ứng dụng trong Y pháp nhận dạng - BS NGUYỄN ĐÌNH NGUYÊN
Phương pháp chuẩn để kiểm định 3-MCPD trong nước tương và các sản phẩm nước tương có gia hương vị hoặc các nước chấm làm từ đậu nành ở New Zeland - Nguyễn Đình Nguyên
Phản hồi của Nguyễn Đình Nguyên về ý kiến của Phạm Văn Linh “Đâu phải là thiếu cơ sở khoa học”
Sữa và Nuôi dưỡng trẻ em bằng sữa
Tai biến hôn mê sau gây tê kết hợp tuỷ sống-ngoài màng cứng: Một báo cáo lâm sàng đầu tiên trên thế giới
Tai biến liệt mặt sau một phẫu thuật có gây mê
Thuốc rẻ cho người nghèo
Thông báo khẩn cấp của FDA đối với người tiêu dùng ở Mỹ về sản phẩm kem đánh răng nhập khẩu từ Trung quốc - Nguyễn Đình Nguyên
Tranh luận giữa nhà khoa học hàng đầu Việt Nam và Mỹ
Tác dụng của chiếc Khẩu trang I
Tác dụng của chiếc Khẩu trang II
Tác dụng của chiếc Khẩu trang III
Tại sao bệnh Cúm không thanh toán được mà cũng không chữa được?
Tản mạn về về bài viết “Không được tuỳ tiện phát ngôn tiêu cực về chống dịch tiêu chảy” của tác giả Nguyễn Văn Dũng
Ung thư tuyến tiền liệt làm tăng nguy cơ gãy xương - BS Nguyễn Đình Nguyên
Vaccine phòng chống cúm gia cầm A(H5N1) ở người, hứa hẹn?
Vài nét về Vi rút Cúm lợn (heo) (Swine influenza virus)
Vàng nhân não: Biến chứng nguy hiểm ở trẻ sơ sinh, nhưng có thể phòng ngừa được
Vì  sức khỏe người dân hay vì  sợ dư luận?
Vắc-xin kết hợp ngừa đa bệnh MMR-II: tiêm dưới da hay tiêm bắp
Về Bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi
Về quyết định “Hướng dẫn xử lý tiêu hủy mắm tôm ô nhiễm mầm bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm” của Bộ Y tế
Về đợt dịch Tả: “Quan cần nhưng dân chưa vội”, nhưng “xin đừng vội trách đa đa”
Đo thân nhiệt (nhiệt độ) cho trẻ- thiết bị hiện đại có phải lúc nào cũng hữu ích? - BS Nguyễn Đình Nguyên
Đu đủ và thai nghén_ sự thật hay truyền thuyết?
Đu đủ và thai nghén_ sự thật hay truyền thuyết? - BS Nguyễn Đình Nguyên
Đánh giá nguy cơ tác hại của thành phần 3-MCPD trong thực phẩm lên sức khoẻ con người
Đã tìm ra thêm một phương thức điều trị cúm A H5N1 ở người?
Định mức 3-MCPD an toàn nào được đặt ra cho sản phẩm nước tương?
Đổi tên “Cúm Heo”, thương thay thân phận Con Gà!


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn