Có cảnh báo gì bên cạnh thông tin “ăn nhiều chocolate đen có lợi cho tim mạch”?
Lương y VÕ HÀ
Trong thời gian gần đây, nhiều phương tiện thông tin đại chúng đã phổ biến thông tin ăn nhiều chocolate đen có lợi cho hoạt động của hệ tim mạch. Nguồn tin cho biết ăn chocolate đen có thể làm dịu sự căng thẳng tâm lý mà còn có thể hạ huyết áp và làm giảm nguy cơ máu đông. Tuy nhiên, sự kiện nầy còn có nhiều mặt cần quan tâm.
Cắn một miếng chocolate, vị ngọt lịm lan nhanh từ đầu lưỡi. Ngọt ngào và sảng khoái làm sao! Nếu trước kia nhiều người thích ăn chocolate còn e dè đôi chút do ám ảnh béo phì, sợ hư răng hoặc gì gì nữa thì nay họ có thể thoải mái hơn nhiều. Điều nầy có thể dẫn đến nhiều nguy cơ cho sức khoẻ.
Chocolate đen có thể hạ huyết áp và giảm nguy cơ máu đông.
Câu chuỵên có lẻ bắt đầu từ một nghiên cứu của Giáo sư Jeffrey Blumberg thuộc trường Đại học Tufts ở Boston, Mỹ. Ông đã tiến hành khảo sát một nhóm người bị áp huyết cao trong thời gian 15 ngày. Những người nầy được cho ăn mỗi ngày 100g chocolate đen giàu chất flavonoids. Sau 15 ngày, ông kiểm tra thấy những người nầy giảm trung bình 12mmHg huyết áp tâm thu và 9mmHg huyết áp tâm trương. Ngoài ra, họ còn cải thiện được độ nhạy đối với insulin và giảm lượng cholesterol xấu khoảng 10%.
Ngoài ra, một báo cáo tại cuộc hội thảo thường niên của Hội Tim Mạch Hoa Kỳ ở Chicago vào ngày 14.11.2006 còn cho biết chocolate đen có thể có tác động sinh hoá hửu ích trong việc làm giảm nguy cơ ngưng kết tiểu cầu ở những người bệnh tim. Kết quả tình cờ có được từ việc 139 người tham gia một cuộc nghiên cứu trên quy mô rộng trên tổng số 1200 người có tiền sử gia đình về bệnh tim. Số người nầy được cho sử dụng aspirin để đánh giá tác động ngăn chận nguy cơ máu đông của loại thuốc nầy. Tuy nhiên, 139 người trong số trên đã bị tách ra khỏi cuộc thí nghiệm do họ nghiện ăn chocolate. Họ không thể không ăn chocolate hàng ngày, một trong số những yêu cầu của cuộc thí nghiệm. Sau đó, việc theo dõi những số liệu của những người nầy đã dẫn đến một kết quả thú vị khác. Đó là việc thường xuyên ăn chocolate đen cũng có tác động gần giống như aspirin trong việc làm giảm sự kết tụ những huyết cầu gây đông máu thường làm bế tắc những huyết quản trong những bệnh tim mạch. Bà Diane Becker, Giáo sư trường Đại học Y khoa John Hopkins, người chủ trì cuộc thí nghiệm cho biết “Ăn một ít chocolate hoặc nước ngọt có chứa tinh chất ca cao trong khẩu phần ăn hàng ngày có thể tốt cho tim miễn là đừng ăn quá nhiều nhất là những loại chocolate có nhiều chất bơ và đường[C1] ”
Có cảnh báo gì đàng sau những kết quả “ngọt ngào” nầy?
Từ lâu các nhà khoa học đã biết được giá trị bổ ích của nhiều loại hạt có chất béo. Nguồn thực phẩm thực vật nầy có hàm lượng cao những chất sinh tố, khoáng chất, những chất chống oxy hoá và những loại acid béo chưa bão hoà rất hửu ích cho hoạt động của bộ não, cho hệ tim mạch và [C2] [C3] [C4] [C5] [C6] [C7] [C8] [C9] hệ miễn dịch[C10] . Hạt ca cao, nguyên liệu chánh dùng để để sản xuất kẹo chocolate cũng có những giá trị nầy. Vấn đề là trong một thanh kẹo hoặc một viên kẹo mà chúng ta ăn vào sẽ có được bao nhiêu phần trăm những vi chất hửu ích nầy. Còn lại là chất đường, bơ hoặc chất béo. Vậy cái nào lợi cái nào hại, lợi và hại đến mức độ nào, không phải chỉ cho tim mạch mà cho cả những cơ quan khác!
Trước hết, một sự thật dễ nhận thấy là thành phần ca cao trong chocolate không phải là hạt thô chocolate. Những chất xơ, sinh tố, khoáng chất và những hợp chất flavonoids trong hạt thô mất đi rất nhiều qua quá trình chế biến và tinh lọc. Thứ hai, những hợp chất flavonoids, những hoạt chất chống oxy hoá của hạt ca cao, thường có vị chát và đắng, điều mà nhà sản xuất thường có khuynh hướng cố tình lọc bỏ để hợp khẩu vị của người tiêu dùng. Được biết, những loại chocolate mà các nhà khoa học thử nghiệm và khuyên dùng là những loại được sản xuất theo công nghệ đặc biệt để bảo đảm còn lại từ 70 đến 90% chất flavonoids. Trên thực tế, chúng ta khó nhận biết được loại chocolate mà chúng ta mua là đen hay “xám”! Hơn nữa, theo ước tính[i] của những nhà khoa học, ngay cả vớ[C11] [C12] i loại chocolate đen được chế với công nghệ đặc biệt để có thể giữ được tối đa hoạt chất, ăn chocolate để có đủ lượng flavonoids có thể làm giảm 10% cholesterol cũng đồng nghĩa với cung cấp thêm cho cơ thể 200 calori. Do đó, nếu không có biện pháp để tiêu thụ số năng lượng thêm vào nầy, cơ thể sẽ tăng thêm khoảng 20 pounds trong vòng một năm. Điều nầy thực sự đáng ngại nếu bạn là người ít vận động hoặc thuộc nhóm có nguy cơ mắc bệnh tim mạch hay tiểu đường.Vẫn là lợi bất cập hại!
Ăn nhiều chocolate có thể dẫn đến loãng xương.
Một công trình nghiên cứu[ii] có kết quả đi ngược lại thông tin “ăn chocolate đen có ích cho tim mạch” đã được đăng tải trên tạp chí American Journal of Clinical Nutrition số ra tháng 1.2008 vừa qua.
Các nhà khoa học trường Đại học Western Australia đã khảo sát trên 1001 người phụ nữ tuổi từ 70 đến 85 tuổi được lựa chọn ngẫu nhiên. Một số được cho ăn bổ sung calcium, số khác với giã dược (placebos) trong giai đoạn nhiều tuần lễ liền. Thời gian nầy họ cũng được yêu cầu ghi lại mỗi lần họ ăn chocolate hoặc uống nước ngọt có chất ca cao. Kết quả cho biết những người ăn chocolate đều đặn hàng ngày có mật độ xương kém hơn 3,1% so với người chỉ ăn chocolate ít hơn 1 lần mỗi tuần. Ngoài ra, người ăn nhiều chocolate còn có biểu hiện hấp thụ calcium kém hơn. Những nhà khoa học nầy cho rằng có thể chất oxalate trong ca cao đã làm giảm hấp thu calcium. Chất đường cũng có thể làm tăng sự bài tiết calcium bằng đường tiết niệu. Giáo sư Jonathan Hodgson, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết “Ca cao và chocolate đã được biết là có một số lợi ích cho hệ tim mạch. Tuy nhiên, ảnh hưởng của việc ăn nhiều chocolate đen trên những cơ quan, tổ chức khác của cơ thể chưa được nghiên cứu đầy đủ[iii]”.
Kẹo bánh, đường trắng không phải là những thức ăn lành mạnh.
Chất bột đường là nguồn cung cấp năng lượng quan trọng. Tuy nhiên, năng lượng được cung cấp phải tương ứng với hoạt động của cơ thể. Khi dư thừa, một phần glucid sẽ được dự trữ trong các bắp thịt và gan, phần khác sẽ được chuyển thành acid béo hoặc triglycerids làm gia tăng lượng mỡ trong cơ thể. Do đó, ăn dư thừa chất đường là một trong những nguyên nhân dẫn đến béo phí, tiểu đường và bệnh tim mạch. Ngoài ra, nguồn năng lượng chánh được khuyên dùng thường là những carbohydrates phức hợp từ những loại ngũ cốc thô hơn là những thực phẩm tinh lọc, càng không phải chỉ là những kẹo, bánh hoặc đường trắng. Carbohydrates phức hợp có nhiều chất xơ có tác dụng tăng cường sự đốt mỡ, cải thiện độ cholesterol trong máu và điều hoà việc hấp thu chất đường. Các loại bánh, kẹo thường chứa nhiều loại đường đơn có thể thấm nhanh qua màng ruột vào máu. Đường huyết tăng cao làm tăng gánh nặng của tuỵ tạng trong việc sản xuất insulin để đưa đường vào tế bào. Những dao động lên và xuống của đường huyết do việc ăn đồ ngọt thường xuyên ảnh hưởng đến hoạt động nội tiết và tác động xấu lên hành vi và cả sức khoẻ thể chất. Mặt khác, những loại carbohydrates phức hợp còn chứa nhiều loại sinh tố, chất khoáng và những chất chống oxy hoá cần thiết cho nhu cầu biến dưỡng, cho sự chuyển hoá các chất, kể cả chất đường. Ngược lại, đồ ngọt không chỉ cung cấp cho cơ thể quá nhiều chất đường, mà còn bắt buộc cơ thế phải huy động những sinh tố và khoáng chất từ những tế bào và cơ quan trong cơ thể để đáp ứng nhu cầu chuyển hoá chính nó, nhất là nhóm sinh tố B và khoáng chất calcium. Lâu dài dẫn đến sự thiếu hụt những vi chất dinh dưỡng nầy và gây ra bệnh tật. Vì lý do nầy, những nhà nghiên cứu về thực dưỡng thường cho rằng đường trắng và các loại bánh kẹo là những chất độc hại.
Những nghiên cứu về chất đường cho biết chỉ cần một lượng đường tương đương với một chai nước ngọt cỡ 300g là đủ để ngăn chận đáp ứng miễn dịch của những tế bào bạch cầu trong việc tiêu diệt vi trùng gây bệnh. Sự suy giảm kháng nhiễm nầy rõ nhất khoảng 2 giờ sau khi ăn đường, và kéo dài đến khoảng 5 giờ sau đó[iv].
Một nghiên cứu khác của Giáo sư Keith Conners còn cho biết trẻ em nhạy cảm vởi đường hơn người lớn và cho trẻ dùng nhiều đường có thể ảnh hưởng đến hành vi và sự phát triển trí tuệ. Ông khảo sát trên 2 nhóm trẻ em. Nhóm thứ nhất cho uống nước ngọt. Nhóm thứ hai chỉ uống nước thường. Sau một thời gian nhóm trẻ dùng nhiều nước ngọt có biểu hiện suy giảm khả năng tập trung và ghi nhớ. Ngoài ra, chúng còn tỏ ra dễ căng thẳng và hiếu động hơn[v].
Nói chung, dù hiểu theo cơ chế nào, việc ăn nhiều bánh kẹo bao gồm kẹo chocolate không phải là điều đáng khuyến khích. Thỉnh thoảng bạn có thể ăn chocolate, đen hoặc trắng. Tuy nhiên, không nên xem chocolate là một loại thuốc có ích cho hoạt động tim mạch. Bù lại, để tăng cường chất chống oxy hoá, bạn có thể ăn thêm rau, quả hoặc một số hạt có chất béo khác như hạt dẻ, hạt mè, hạt bí, hạt hướng dương. Giáo sư Blumberg là người chủ trì cuộc thí nghiệm đã đề cập ở phần đầu, chuyên nghiên cứu về lão khoa và những chất chống oxy hoá. Ông cho biết thí nghiệm nhằm đánh giá tác động của những hợp chất flavonoids trong hạt ca cao chớ không có ý khuyến khích việc ăn chocolate cho bệnh tim mạch. Ông nói “Chocolate không phải là một món ăn lành mạnh. Bông cải, vâng, bạn có thể ăn bao nhiêu tuỳ thích. Còn chocolate đen ư, tôi không nói như vậy[vi][1].”
[i] Take two candy bars and call me in the morning. www.revolutionhealth.com.
[ii] Charlotte Eyre. Chocolate linked to weaker bone. 15.Jan.2008.www.foodnavigator-usa.com.
[iii] Chocolate “offenders” teach science sweet lesson. www.hopkinsmedicine.org.
[iv] Excess sugar depress immunity. www.askdrsears.com
[v] Sugar sours behavior, attention and learning. www.askdrsears.com.
[vi] Sally Squires. Health benefits are found in the beloved sweet treat. www.startribune.com/lifestyle.