Bác sĩ vui tính trả lời (phần 37)
Hệ sinh thái của ao có tự làm sạch môi trường nước tù đọng không?
Ngày nay, người dân các vùng nông thôn Việt Nam đã dần dần dùng nước giếng thay thế nước ao để giữ vệ sinh. Tuy nhiên, nếu chỉ kết tội cái ao một bề thì thật bất công, vì không phải nước ao nào cũng bẩn. Ở những vùng mạch nước giếng sâu bị chua, mặn, có màu gạch cua của sắt, người ta phải dùng nước ao. Họ dẫn nước ao vào một giếng nông, sau khi lọc qua hào cát, để ngăn giữ các chất hữu cơ làm nước có mùi.
Cái ao có đời sống của nó. Ở đây, mỗi loài sinh vật quan hệ qua lại với nhau trong thế thăng bằng của hệ sinh thái. Hơn bất cứ phương tiện hiện đại nào, các vi sinh vật và cây xanh đã làm cho môi trường sống từ ô nhiễm trở lại trong lành. Cơm thừa, canh cặn, ruột gà, ghét bẩn khi xuống ao liền trở thành thức ăn cho cua, cá và được “dọn sạch”. Mùn rác trút vào ao và chất thải của cá là phân bón cho bèo, rau muống. Cánh bèo lụi, lá tre rụng xuống ao được thủy phân, lên men và biến thành bùn. Qua giai đoạn thối rữa, những rác thải này không còn mùi khó chịu của amoniac hay hydro sunfua nữa. Ngoài ra, những bờ bụi quanh ao thường có lạch nước cho muỗi đẻ trứng; những con quăng muỗi lại trở thành thức ăn cho cá…
Thảm thực vật của ao có tác dụng thanh khiết môi trường. Phương pháp sinh vật tự nhiên này chống ô nhiễm rẻ tiền và hiệu quả hơn các phương pháp lý hóa.
Viện nghiên cứu giấy Ucraina cho biết, cây sậy vẫn mọc tốt trong nước ao có nồng độ chất chì cao gấp 4.000 lần nồng độ nước bình thường hoặc có hàm lượng phenol 500mg/lít (chỉ cần 0,2 mg phê non trong một lít nước là đủ làm chết cá). Thậm chí, sau 20 ngày, cây sậy đã lọc sạch tất cả các chất độc này. Vì vậy, người ta thường trồng sậy trong ao để khử độc chất thải của các nhà máy và bảo vệ cá nuôi.
Theo nhà sinh hóa học Bin Volverton, cây bèo sen cũng có công lớn trong việc bảo vệ môi trường sống của con người. Một ha bèo sen thanh lọc được 6.600 tấn nước bẩn sinh học (phân, rác) hay hóa học (nước thải của các xí nghiệp). Bèo sen hút được các kim loại nặng như chì, niken, thủy ngân, cadmi, thậm chí cả vàng, bạc. Ở bang Colorado (Mỹ) có một con suối chảy qua mỏ vàng, nước suối hòa tan nhiều bột vàng. Người ta đã nuôi bèo sen ở suối, rồi đốt bèo, lọc lấy vàng trong tro. Đây là cách khai thác vàng rẻ tiền nhất. Cục Bảo vệ môi trường Mỹ cũng dự định dùng cây bèo sen để xác định mức độ ô nhiễm, nhất là ô nhiễm chất phóng xạ vì cây bèo sen hút rất mạnh các chất độc hại này.
Ở miền Nam hiện vẫn còn những cầu tiêu trên ao để vỗ béo cá vồ, giống như những “cầu tõm” ở miền Bắc năm xưa, rất mất vệ sinh. Viện Vệ sinh dịch tễ thành phố Hồ Chí Minh đang tìm một phương pháp xử lý nước thải bẩn này bằng cách cho nó chảy qua một ao lắng rồi khử chế nước bằng bèo và cá rô phi.
Các quần thể sinh vật trong ao quan trọng như vậy đấy. Nhưng ngày nay, sự phát triển vô tổ chức của nhiều thành phố, thị xã đã khiến ao đầm bị lấn, thiên nhiên xanh bị thu hẹp lại. Điều này đã làm đứt một đoạn trong hệ sinh thái, ảnh hưởng xấu đến khí hậu khu vực và sức khỏe.
Phải chăng ao hồ vẫn cần có trong cảnh quan thành phố?
Thành phố hiện đại trông rất đẹp, một phần vì có những cái hồ, công viên, những đường xanh bóng cây. Đó là những lá phổi lớn của đô thị. Cái nóng mùa hè được nước hút đi. Gió hồ lồng lộng sẽ quạt lên một làn không khí tinh khiết; làn khí này được cây xanh làm giàu ôxy bằng quá trình quang hợp. Nếu được làm bạn cùng mây nước thiên nhiên, con người thành thị sẽ có sự nghỉ ngơi thoải mái sau những giờ lao động mệt nhọc, căng thẳng.
Từ xưa, người ta đã thấy ý nghĩa đó của hồ nước giữa kẻ chợ, phố phường. Thế kỷ 18, tại Hồ Tây, chúa Trịnh Giang đã lập bến tắm Nghi Tàm trồng trúc ngà. Địa điểm này, cùng với rừng bàng Yên Thái, nổi tiếng là những nơi du ngoạn.
Vua chúa thường ra hồ Gươm dạo mát, ngắm trăng, mở hội vui. Lê Thánh Tông lập điếu đài (đài câu) trên hồ. Những đêm trăng rằm, sau tiệc rượu, vua ban thưởng cho những vị quan nào câu được con cá đeo vòng vàng. Chúa Trịnh cũng hay duyệt thủy quân ở hai vọng đình Tả, Hữu trên hồ Gươm. Quanh hồ này xưa là xóm của văn nhân nghệ sĩ, vì nước và trăng thường gợi hứng cho thơ. Cũng vì vậy mà Tháp Bút, Đài Nghiên được xây bên cầu Thê Húc, đảo Ngọc Sơn, có đình chắn sóng (Trấn Ba) và lầu đầy trăng (Đắc Nguyệt).
Những di tích ấy ngày nay đang được tu bổ lại bằng việc nạo hồ, vét lòng, cạp đất lở ven bờ. Nhờ đó, người hiện đại và con cháu cũng được hưởng cái thú thanh tao bên hồ nước đẹp của thủ đô văn vật.
Cùng mục đích đó, Hà Nội đang khơi lại dòng sông Tô Lịch (vốn rất nên thơ, có vai trò thoát 70% nước của thủ đô, nhưng vào thời Tây đã biến thành cái rãnh cụt đổ rác). Sông Tô ngày mai sẽ chảy giữa một rừng cây hoa đẹp, có bóng đèn thủy ngân cao áp soi sáng những nhịp cầu, có những đoàn xe chạy một chiều trên các tuyến đường đôi, và có những người dạo mát, những lứa đôi ngồi tâm sự.
(còn tiếp)