Bác sĩ vui tính trả lời (phần 42)
Tại sao những chị lên miền núi xây dựng vùng kinh tế mới đều béo tốt, hồng hào và lớn phổng lên?
Không chỉ các cô gái trẻ dưới xuôi lên miền núi mới có hiện tượng tăng cân, mà các thiếu nữ sống ở miền núi trung du đều như vậy. Trong khung cảnh núi rừng nổi bật lên những cô gái H' Mông, Thái, má mọng như quả đào chín Sa Pa, leo dốc thoăn thoắt với những bắp chân chắc đẹp. Rõ ràng là khí hậu vùng cao có những yếu tố thuận lợi đối với sự phát triển thể lực của các cô gái thời kỳ xuân sắc.
Đặc điểm của khí hậu vùng cao là mát lạnh và ít ấm hơn dưới xuôi. Càng lên cao, nhiệt độ càng xuống thấp. Ở miền Bắc Việt Nam, vùng Đông Bắc là lạnh nhất; mùa đông ở đây thường đến sớm. . Vùng Đông Bắc đón những đợt sóng lạnh của gió bấc từ “cửa gió” Móng Cái, Lạng Sơn tràn về. Gió rét thấu tận Đèo Ngang, lan sang Việt Bắc, tới sườn đông dãy Hoàng Liên Sơn. Còn Tây Bắc tuy được dãy núi Hoàng Liên chắn gió lạnh nhưng vì địa hình rất cao nên mùa rét cũng đến sớm. Mùa thu, tuy các thung lũng hấp thụ nhiều nắng nóng vào ban ngày nhưng về đêm vẫn lạnh, khiến người dân ở đây phải đắp chăn bông.
Những thống kê y học cho thấy, trẻ em thường phát triển chiều cao nhanh nhất về vào mùa đông và tăng cân nhiều nhất vào mùa xuân, tức là vào những tháng tiết trời lạnh giá. Các thiếu nữ đang sức lớn ở tuổi “mười bảy bẻ gãy sừng trâu” cũng theo quy luật phát triển thể lực này.
Nhiệt độ thấp vừa phải của miền núi Việt Nam (20-22 độ C) là nhiệt độ tối ưu đối với sức khỏe con người. Với khí hậu hơi lạnh và khô ráo, cơ thể cảm thấy thoải mái hơn cả. Con người không phải ra mồ hôi nhễ nhại để thải nhiệt, do đó chỉ mất ít nước và không gầy sút. Cái lạnh kích thích ăn ngon và tiêu hóa tốt. Khí hậu mát mẻ thường khiến con người mát da mát thịt, béo tốt, nở nang, nhất là các bạn gái trẻ, ở lứa tuổi mà thần kinh và nội tiết rất nhạy cảm với những biến đổi của môi trường sống.
Ngoài ra, không khí vùng cao lại thoáng đãng, tinh khiết hơn so với thành thị và những vùng khác của đồng bằng nên rất tốt cho sức khỏe con người.
Liệu có chuyện rừng thiêng nước độc làm sinh bệnh “ngã nước” như trước đây người ta vẫn nói không?
“Ngã nước” là từ mà ngày xưa dân gian vẫn dùng để gọi bệnh sốt rét. Trước đây, đây là một căn bệnh khủng khiếp ở mạn ngược. Ai đi lên miền núi cũng lo sợ do ngã nước mà “có đi không có trở về” như câu ca dao này tả:
“Những người lử khử lừ khừ
Chẳng ở Đại Từ cũng ở Võ Nhai”
Người bệnh sốt rét mặt bủng da chì, bụng to như có mang:
“Giếng Đồng Thịnh, chó rụng lông
Gái không chồng đi qua cũng chửa”
Nào có chửa đẻ gì đâu, chẳng qua là có cái lá lách sưng to, cái bụng báng nước (y học gọi là cổ trướng) do xơ gan, hậu quả của việc nhiễm trùng sốt rét nặng.
Người ta đã khiếp sợ và đổ tội oan cho nước, cho rằng và núi rừng có “ma thiêng nước độc”. Ngày nay, y học đã tìm ra thủ phạm thực sự; đó là những con ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, làm vỡ các hạt máu đỏ. Ký sinh trùng này truyền bệnh từ người này sang người khác qua vật trung gian gây bệnh là muỗi anophen. Vì thế, để phòng bệnh sốt rét và để bệnh không tái phát, ngoài việc uống thuốc, người ta còn phải phun thuốc DDT trừ muỗi, phát quang bụi rậm, lấp vũng nước đọng nơi muỗi đẻ trứng, nằm màn chống muỗi…
Bệnh sốt rét không chỉ lưu hành ở vùng rừng núi mà còn lác đác xảy ra ở đồng bằng và thành phố. Và không phải vùng rừng núi nào cũng là xứ sở của bệnh dịch sốt rét cả. Chẳng hạn, những vùng rẻo cao quanh năm lạnh giá hoàn toàn không có bệnh sốt rét vì muỗi truyền bệnh không chịu nổi khí hậu ở đây.
Như vậy, bệnh sốt rét chẳng liên quan gì đến nước lành hay nước độc. Nước suối trong nếu được giữ sạch, đun sôi thì hoàn toàn đảm bảo vệ sinh. Bà con miền núi thường bắc máng lần, xây giếng mó để có thể sử dụng nước suối trong sinh hoạt. Khi chảy qua máng và vào giếng, nước được lắng vôi và ôxy hóa trong ánh nắng và không khí thoáng sạch, hoàn toàn không gây bệnh.
(Còn tiếp)