MẰT VÀ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
PGS. BS HOÀNG THỊ LŨY
Gần đây, trên Báo Sức Khỏe & Đời Sống có nói nhiều đến bệnh tiểu đường
(hay đái tháo đường) vì đó là 1 bệnh gây nhiều biến chứng lại khó chữa, và
nếu phát hiện muộn, điều trị không kịp thời, đúng cách, sẽ dẫn đến tàn phế,
hoặc có ảnh hưởng đến sinh mệnh.
Theo một số tài liệu nghiên cứu của các chuyên gia Việt Nam, thì bệnh tiểu
đường có chiều hướng gia tăng ở nước ta. Trong vòng 30 năm nay tần số bệnh
tiểu đường đã tăng lên từ 6-12 lần.
Nhưng có một điều ít ai chú ý đến biến chứng ở mắt của bệnh tiểu đường, mà
nó là 1 trong những nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở các nước phát triển
hiện nay. Là nguyên nhân thứ 1 ở lứa tuổi trước 50, và nguyên nhân thứ 2 ở
tuổi cao hơn, sau bệnh thoái hóa hoàng điểm tuổi già, bệnh glaucome. Và ở
Việt Nam, bệnh đục thủy tinh thể là nguyên nhân gây mù lòa hàng đầu và chưa
có những công trình nghiên cứu chuyên sâu để xác định vị trí. Nhưng ai cũng
nhận thấy rõ 2 biến chứng ở mắt gây mù lòa quan trọng cho người bị bệnh tiểu
đường là bệnh lý võng mạc và đục thủy tinh thể.
Vì vậy vấn đề phổ cập nhận thức, khám kiểm tra, tổ chức quản lý theo dõi về
mắt thường xuyên cho cả cuộc đời người bị bệnh tiểu đường là rất cần thiết,
để hạn chế biến chứng dẫn đến mù lòa cho hàng chục vạn người bị bệnh tiểu
đường ở nước ta hiện nay và ước tính có đến hàng triệu người trong vòng 15
năm sau.
I. Biến chứng ở mắt của bệnh tiểu đường
Biến chứng ở mắt có nhiều, nhưng chỉ xin nói đến 2 biến chứng gây mù quan
trọng, là bệnh lý võng mạc tiểu đường (Retinopathie diabétique) và đục thủy
tinh thể.
1. Bệnh lý võng mạc tiểu đường
Tỷ lệ tăng theo thời gian mắc bệnh tiểu đường và quan trọng là tăng đường
huyết kinh niên.
Sau khoảng 10-15 năm tiến triển thì 90% loại type I và 60% loại type II có
bệnh lý võng mạc. Trong đó 50% dẫn đến mù lòa. Bệnh tiến triển thầm lặng,
người bệnh không cảm thấy triệu chứng cơ năng, cho đến khi bệnh lý tiến
triển nhanh, gây mù lòa mới phát hiện thì bệnh đã nặng, khó có khả năng hồi
phục.
Bệnh lý võng mạc tiểu đường phát sinh do rối loạn quá trình chuyển hóa gây
tổn hại ở huyết quản và tế bào thần kinh võng mạc, nên có hiện tượng phình
mạch hay tắc mạch vi ti ở các huyết quản trước võng mạc, có vùng hoại tử nhỏ
hoặc lan rộng ở võng mạc chu biên hay trung tâm, nặng hơn thì có xuất huyết,
thoái hóa võng mạc từng vùng, nhất là phù hoàng điểm. Do thiếu máu nuôi
dưỡng, phát sinh các tân mạch, gây xuất huyết võng mạc xâm nhập vào pha lê
thể, co kéo làm bong võng mạc hay tăng áp tân mạch.
Đó là biến chứng nặng dẫn đến mù lòa.
2. Bệnh đục thủy tinh thể (T3)
Bệnh đục T3 trên người tiểu đường xuất hiện sớm trước tuổi, thường là ở
người trẻ, tiến triển rất nhanh đến đục toàn bộ có khi chỉ trong vài 3 tuần,
vài 3 tháng, chứ không phải hàng năm như trên người bình thường. Và theo 1
số công trình nghiên cứu tỷ lệ bị đục thủy tinh thể ở người tiểu đường cao
gấp 6 lần ở nhóm người bình thường.
Bệnh do cơ chế chất sorbitol và glucose tích tụ trong T3 làm tăng sự thẩm
thấu, T3 căng phồng mặt khác gây sự thay đổi thành phần các chất lỏng và
cristalline trong T3, nên T3 mất tính trong suốt. Vì vậy trên người tiểu
đường thường bị đục cả 2 mắt và tiến triển nhanh không từ từ như hiện tượng
lão hóa ở người già. Và trong chuyên môn phân loại là đục T3 bệnh lý.
II. Khả năng chữa trị
Đối với bệnh lý võng mạc tiểu đường, trong những năm 60 đó là vấn đề nan
giải. Nhưng với phương tiện và tiến bộ kỹ thuật hiện nay, việc bảo vệ phục
hồi thị lực cho bệnh này đã có bước tiến bộ đáng kể.
Việc chẩn đoán, phát hiện sớm bằng chụp hình đáy mắt với mạch ký huỳnh
quang và áp dụng laser quang đông liệu pháp, đã đưa lại kết quả ngoạn mục.
Cho nên có tác giả đã khẳng định "đây là 1 trong những tiến bộ có ý nghĩa
đặc biệt nhất, trong lịch sử y học".
Laser quang đông liệu pháp có chỉ định cho tất cả các thời kỳ kể cả có tân
mạch và xuất huyết thâm nhập vào pha lê thể, nhưng tất nhiên điều trị càng
sớm hiệu quả càng tốt hơn. Cũng có nhóm tác giả nghiên cứu điều trị bằng
thuốc trong thời kỳ đầu, chủ yếu là chống ngưng kết tiểu cầu nhằm làm chậm
sự tiến triển về số lượng những phình mạch và tắc mạch vi ti ở các huyết
quản võng mạc.
Nhưng luôn luôn và cái chính vẫn là phải kết hợp điều trị toàn thân, điều
chỉnh lượng đường trong máu và điều chỉnh huyết áp, nhằm ngăn chặn tổn hại
võng mạc và phù hoàng điểm tiến triển. Đặc biệt là thực hiện chế độ ăn kiêng
đường, tăng chất đạm, và rau tươi.
Còn đối với đục thủy tinh thể thì trước kia rất dè dặt không dám mổ vì
nhiều biến chứng hậu phẫu: chảy máu, nhiễm trùng, vết mổ lâu lành...
Nhưng nay, với phương tiện máy móc hiện đại, mổ với đường rạch nhỏ, rất an
toàn, nên khuyên mổ sớm nhằm:
- Phục hồi thị lực sớm cho bệnh nhân.
- Dễ dàng theo dõi tình trạng bệnh lý võng mạc, pha lê thể và hoàng điểm để
có chỉ định điều trị kịp thời.
Tất nhiên là có 1 quy định đặc biệt, cẩn trọng cho bệnh nhân, trước khi mổ,
trong và sau khi mổ, để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người bệnh.
III. Việc quản lý, theo dõi, bảo vệ mắt của người bệnh tiểu đường phải
như thế nào?
Trước hết người bệnh tiểu đường cần nhận biết được tầm quan trọng và thực
hiện nghiêm túc chế độ khám mắt, kiểm tra thường xuyên theo lịch quy định để
phát hiện và điều trị kịp thời, khi chưa có tổn hại võng mạc và thần kinh,
gây giảm thị lực.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các thầy thuốc nhãn khoa, đa khoa và
chuyên khoa tiểu đường. Nếu có được 1 tổ chức như ở Pháp (Association pour
l'etude du diabète et des maladies Métaboliques) hay ở Mỹ (DRS) thì càng
tốt, để có những quy định, những khuyến cáo, hướng dẫn người bệnh và thân
nhân thực hiện chế độ. Và có thể đến với các thầy thuốc đa khoa ở cơ sở chưa
có chuyên khoa sâu, cũng có thể quản lý theo dõi, cho bệnh nhân những lời
khuyên bổ ích, kịp thời.
Chế độ khám có thể quy định (theo 1 số tài liệu nước ngoài):
1. Khám lần đầu
Tiểu đường khởi phát:
- Có thể khám đáy mắt sau 3-5 năm (vì chưa biểu hiện ở mắt ngay).
- Nhưng nếu có điều kiện đi khám đáy mắt ngay càng tốt, nhất là ở người
trên 40 tuổi.
2. Theo dõi quản lý
- Đối với bệnh nhân chưa có bệnh lý võng mạc: khám mắt 1 lần/năm. Làm mạch
ký huỳnh quang phát hiện tổn hại đầu tiên.
- Đối với bệnh nhân có bệnh lý võng mạc: khám mắt làm mạch ký huỳnh quang 6
tháng 1 lần. Chú ý theo dõi tổn hại hoàng điểm. Nếu đã có làm laser liệu
pháp, kiểm tra 4 tháng 1 lần.
- Đối với bệnh nhân đã có BLVM tăng sinh: Laser quang đông liệu pháp kiểm
tra mắt 2 tháng 1 lần.
Trong vấn đề này chúng tôi thiết nghĩ, nên có những công trình nghiên cứu
chuyên sâu, điều tra dịch tễ học, hồi cứu về tình hình bệnh lý võng mạc,
hoàng điểm do bệnh tiểu đường trên bệnh nhân Việt Nam, có bảng phân loại
thống nhất về bệnh lý võng mạc ở các thời kỳ... để rút ra những điểm đặc
thù.
Cần có sự tuyên truyền phổ biến rộng rãi trong nhân dân về tổn hại, biến
chứng của bệnh, để tự theo dõi phát hiện và tìm đến chuyên khoa kiểm tra
mắt, khi biết mình có bệnh tiểu đường.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các thầy thuốc nhãn khoa, đa khoa và
chuyên khoa tiểu đường. Và việc phát hiện quản lý, điều trị các biến chứng ở
mắt do bệnh tiểu đường được tiến hành trên quy mô quốc gia v.v...
Chúng ta tin rằng có thể giảm thiểu tỷ lệ mù lòa, hạn chế các biến chứng,
bảo vệ chức năng thị giác cho những bệnh nhân tiểu đường, đang có chiều
hướng gia tăng ở nước ta.