CON ĐƯỜNG CẬN VIỄN
NGUYỄN HƯNG
Hồi nhỏ tôi từng mơ mình được... đeo cái kính cận như thầy giáo cho nó 
	oách. Thế rồi tôi cố nhìn sát vào sách khi đọc để mong có ngày đeo kính ra 
	là người trí thức! Còn bây giờ thì tôi hoảng hồn lên khi mắt của mình có vẻ 
	hơi mờ đi vì cận, và ớn hơn là gặp các cô cậu học trò, mắt ngơ ngác đằng sau 
	cái kiếng cận dày, mỏng khác nhau. Số trò đeo kính này đang ngày càng đông 
	đảo hẳn lên.
ĐI TÌM NHỮNG "KHUÔN MÂT KÍNH"
Một buổi trưa, tôi ngồi ngoài cổng trường chuyên Lê Hồng Phong để thử nhìn 
	những cô cậu học trò đi học về, trong số họ ai là người mang kính. Đây là 
	một trường học, nổi tiếng với sự xuất sắc của thầy và trò. Và cũng như có sự 
	tương hợp trường này "xuất sắc" không kém về số lượng dùng cặp kính. Đếm 1, 
	2, 3... rồi 10, 15... khuôn mặt kính. Tôi không đủ kiên nhẫn đành phải quay 
	về. Một nghiên cứu khoa học về tật khúc xạ mới nhất, cho biết trong số 564 
	học sinh trường Lê Hồng Phong được kiểm tra mắt (chọn ngẫu nhiên), thì 44,1% 
	học sinh bị giảm thị lực, 42,7% em bị tật khúc xạ trong đó có 30% em bị cận 
	thị... Con số đáng để nói. Không riêng gì trường Lê Hồng Phong, ở trường 
	Diên Hồng có 7,4% trong số 690 em được khám mắt bị cận thị, trường Cầu Kiệu 
	là 22,3% (trong số 56 em được khám), Colette là 22,3% (trong số 471 em)... 
	Những số liệu trên cho biết, so với một công trình nghiên cứu vào năm 1994 
	thì số học sinh bị tật khúc xạ, chủ yếu là cận thị, đã tăng vọt lên gấp 3 
	lần.
Một bác sĩ chuyên về y tế học đường cam đoan với tôi: "Hiện nay, không dưới 
	10% học sinh phải đeo kính cận". Tôi biết, có lẽ vị bác sĩ này ước đoán 
	trên cơ sở số học sinh bị cận thị quá nhiều ở TP Hồ Chí Minh, còn bản thân 
	con số thống kê thực ở cả nước thì hiện nay chưa rõ? Nhưng ước đoán đó quả 
	không xa sự thật bao nhiêu khi lượng học sinh bị cận thị và một số tật khúc 
	xạ khác như loạn, viễn đang có chiều hướng tăng nhanh. Con đường học trò 
	ngoài những điều thường có ở tuổi học đường còn lấp lóa thêm cặp kính dày 
	mỏng khác nhau, đến 20,7% trong số học sinh ở TP Hồ Chí Minh được khám bị 
	cận. Ngay năm 1991, Bộ Y tế cũng đã có công bố: tỷ lệ cận ở phổ thông trung 
	học đã lên đến 8,12%. Số lượng học sinh bị cận nhiều đến nỗi chủ một tiệm 
	kính thuốc nói với tôi: "Kính cận được bán ngày càng nhiều so với các năm 
	trước, đa số là học sinh, sinh viên đến mua". Thử làm một phép tính, riêng 
	tại TP Hồ Chí Minh, năm 1998-1999 có hơn 1 triệu học sinh, trong số này có 
	200.000 em đeo kính, mỗi em trong đời học sinh phải mua 5 cái kính vị chi là 
	1 triệu cái. Giá kính hiện nay rẻ nhất là 40.000đ, nhân lên số tiền bằng: 40 
	tỷ. Còn cả nước? Một số tiền không nhỏ. Đó là chưa kể sự thiệt hại lớn hơn 
	là về sức khỏe, sức lao động v.v... Đáng báo động hơn, một kết quả nghiên 
	cứu khảo sát cho hay: 10% trong số các em bị cận đã không có kính đeo. Những 
	em này có thể do nhà quá nghèo, hoặc chưa ý thức được việc cần phải đeo 
	kính. Tệ hơn: 94,5% trẻ sau khi điều chỉnh kính thì thị lực phục hồi, còn 
	5,5% vẫn ở mức thị lực thấp hoặc khiếm thị, trong đó có một số em đã bị tổn 
	thương đáy mắt do tật cận thị này.
NGUYÊN NHÂN CẬN THỊ - BÀN GHẾ?
Ông Hà Thúc Phú - Trưởng phòng Giáo dục quận 3 phát biểu rằng nếu học sinh 
	bị cận thị thì phải chú ý là ở nhà các em hay chơi trò chơi điện tử, xem ti 
	vi v.v... chứ không phải riêng tại ở lớp học. Phải nói rằng ông Trưởng phòng 
	Giáo dục không phải là không có lý. Hiện nay, chúng ta không còn xa lạ gì 
	nhiều cậu học trò luôn dán mắt vào màn hình xem tivi hay chơi trò chơi điện 
	tử. Một phụ huynh khoe (nghĩa đen) với tôi: "Con tôi nó ngồi máy vi tính 
	suốt đêm, đến 2-3 giờ sáng nó mới ngủ". Tôi nói: "Học nhiều là tốt, nhưng có 
	lẽ quá nhiều đấy". Ông phụ huynh bảo: "Học gì, nó chơi trò chơi đấy, còn hơn 
	là lêu lổng sợ dính vào ma túy thì khốn". Có lẽ nhiều vị phụ huynh có tâm 
	trạng như vị vừa nói trên. Thà con mải mê chơi trò chơi điện tử, xem video, 
	tivi còn hơn lêu lổng la cà... Do vậy các cậu ấm, cô chiêu cứ tha hồ mà 
	chơi. Giáo sư Hoàng Thị Lũy và nhóm cộng sự cho biết: "Ở trường chuyên trung 
	bình mỗi ngày học sinh ngồi bên bàn vi tính tivi là 1,26 giờ đồng hồ, còn 
	không chuyên là 0,92 giờ". Ngoài ra, cũng theo Giáo sư Hoàng Thị Lũy thì ở 
	gia đình, đa số học sinh dùng đèn huỳnh quang (ánh sáng bị rung động) và 70% 
	không có chụp đèn để học, đó cũng là một trong những nguyên nhân tạo nên tật 
	cận thị nói riêng và tật khúc xạ nói chung.
Quả nhiên, ông Trưởng phòng Giáo dục quận 3 đã có lý. Lý thì có nhưng theo 
	chúng tôi thì chưa đủ. Học sinh bị cận thị có khá nhiều nguyên nhân. Ngoài 
	nguyên nhân học thêm nhiều (đã "biết rồi, khổ lắm, nói mãi"), còn có 
	nguyên nhân: ít được sinh hoạt ngoài trời. Vì đất (mặt bằng trường) cố định 
	mà số học sinh ngày càng gia tăng; tình hình chiếu sáng trong lớp ở nơi này, 
	nơi nọ chưa thật đảm bảo v.v... Nhưng qua tìm hiểu, nguyên nhân đáng lưu ý 
	nhất là bàn ghế của học sinh chưa được "chuẩn" phù hợp với các em.
Ông Lý Thành, Phó Hiệu trưởng trường tiểu học Nguyễn Đình Chiểu, cho hay: 
	"Bàn ghế của trường theo 
	chuẩn nào của Bộ Y tế, hay Bộ Giáo dục, trường không biết. Trường chỉ là 
	nơi nhận chứ không được biết rõ nhận loại bàn ghế như thế 
	nào".
Đây cũng là tình hình chung của các trường công lập. Nếu như ở phổ thông 
	trung học thì bàn ghế học sinh do Xí nghiệp học cụ đóng. Còn ở cấp tiểu học, 
	phổ thông cơ sở, mầm non thì do Phòng Giáo dục quản lý. Và theo như chúng 
	tôi được hay, bàn và ghế của phần lớn các trường học đều không đúng chuẩn.
Theo "chuẩn" của Bộ Y tế nước ta hiện nay (và một số nước tiên tiến trên 
	thế giới đang áp dụng) đã ghi trong điều lệ vệ sinh học đường thì kích thước 
	chiều bàn ghế và hiệu số chiều cao bàn và ghế phải phù hợp từng cấp học. Ví 
	dụ ở mẫu giáo: bàn cao 46cm hoặc 50cm; ghế cao (tương ứng) là 27cm và 30cm. 
	Ở tiểu học bàn cao: 50cm hoặc 55cm hay 61cm; ghế cao tương ứng lần lượt: 
	30cm, 33cm, 38cm. Trung học cơ sở: bàn cao 55cm, 61cm, 69cm; ghế cao 33cm, 
	38cm, 44cm. Ở phổ thông trung học: bàn 69cm, 74cm,; ghế 44cm hay 46cm. Hiệu 
	số độ cao bàn và ghế cũng tương ứng từng cấp học. Ở mẫu giáo hiệu số đó là 
	18-20cm; cấp I: 20-23cm; cấp II: 22-25cm; cấp III: 25-28cm (không vượt quá 
	30cm). Nếu hiệu số chiều cao giữa bàn và ghế quá lớn (trên 30cm) dẫn đến các 
	em phải nhìn vào sách vở rất gần gây nên cận thị, ngoài ra dễ bị lệch cột 
	sống vì khi viết phải nâng vai phải lên, nghiêng mình sang trái. "Chuẩn" bàn 
	ghế là như vậy, nhưng hiện nay ít trường chú ý đến vấn đề này, đặc biệt là ở 
	phổ thông trung học đang dùng loại bàn ghế có hiệu số chiều cao giữa chúng 
	quá cao (vượt trên 30cm). Qua điện thoại, ông Giám đốc Xí nghiệp học cụ TP 
	Hồ Chí Minh cho biết năm học 1998 đóng bổ sung 2.000 bộ bàn ghế. Tìm hiểu 
	thêm thì số bàn ghế đóng mới này là bộ: bàn liền ghế. Đây là một "sáng tạo" 
	đang tồn tại ở nhiều cấp học, "sáng tạo" này không biết xuất phát từ ai 
	nhưng nó có lý do là: để học sinh không làm hư hỏng bàn ghế. Một suy nghĩ từ 
	góc độ bảo vệ của công và được nhiều người dễ chấp nhận. Và cứ như vậy do 
	ghế liền bàn nên khoảng cách giữa mép cạnh bàn và ghế phải đủ xa để học sinh 
	bước vào chỗ ngồi. Khoảng cách xa như vậy nên lúc viết phải cúi gập người 
	trên bàn. Và việc đó dẫn đến cận thị và cong vẹo cột sống. Đây là điều ít 
	bậc phụ huynh, thầy cô giáo nghĩ đến. Bàn ghế đóng liền nhau đỡ hư hỏng như 
	thế nào không biết nhưng học trò dễ bị hỏng mắt, cong vẹo cột sống là điều 
	dễ thấy.
Đi tìm nguyên nhân gây nên "tật cận thị học đường", chúng tôi nghĩ không 
	phải do bàn ghế v.v... mà do những người đã làm nên nó vì bàn và ghế, phòng 
	ốc, bóng đèn là vật vô tri vô giác. Đến đây thì tôi chỉ mong rằng, bằng cách 
	nào đó (cần có biện pháp khắc phục sửa chữa lại bàn ghế theo đúng chuẩn) để 
	góp phần ngăn chặn hiện tượng trẻ bị cận thị ngày càng gia tăng hiện nay, 
	còn nếu không sau này một tỷ lệ lớn con người phải nô lệ vào cặp kính, tệ 
	hơn là... mù.


