NHỮNG QUẢ TIM NHÂN TẠO Ở THIÊN 
	NIÊN KỶ MỚI
  MINH TRÍ
	Bệnh tim mạch được xem là bệnh của thời đại khoa học kỹ thuật, nhưng cũng 
	nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà việc chữa trị bệnh tim mạch đã có 
	nhiều tiến bộ vượt bậc. Trong những năm gần đây ngành phẫu thuật tim mạch đã 
	có nhiều phát triển ngoài mong muốn, người ta có thể thay thế một quả tim 
	tốt cho một người bệnh tim giai đoạn cuối. Theo ước tính của các nhà khoa 
	học mỗi năm có hơn 105.000 người cần thay tim thì chỉ có 3.000 quả tim được 
	hiến, những quả tim hiến tặng này chủ yếu từ những nạn nhân bị chết do tai 
	nạn giao thông. Tuy nhiên nhiều biện pháp hạn chế tai nạn giao thông như: 
	đội nón bảo hộ, nịt dây an toàn khi ngồi ô tô, phương tiện an toàn... đã làm 
	giảm đi các quả tim được hiến, các nhà khoa học đã đi sâu vào kỹ thuật sinh 
	học, mong muốn tạo ra những trái tim nhân tạo cung cấp cho nhu cầu ngày càng 
	tăng này.
PHẪU THUẬT TIM MẠCH TẠI VIỆT NAM
            Năm 1992 
	với sự giúp đỡ của Giáo sư Alain Carpentier (Pháp), Viện Tim thành phố Hồ 
	Chí Minh được thành lập và đi vào hoạt động đến nay đã phẫu thuật tim hở cho 
	hơn 7.000 ca. Phần lớn các trường hợp tim bẩm sinh, bệnh lý van tim được 
	phẫu thuật đã đem lại cuộc sống lành mạnh cho các bệnh nhân. Hiện Viện đang 
	chuẩn bị tiến hành phẫu thuật bệnh lý mạch vành. Bệnh viện Chợ Rẫy cũng đã 
	triển khai mổ tim hở ở phía Nam và ở phía Bắc thì có Viện tim mạch quốc gia. 
	Trình độ phẫu thuật tim mạch của Việt Nam được các chuyên gia thế giới đánh 
	giá cao, trong tương lai hứa hẹn nhiều thành công mới trong lĩnh vực này 
	nhằm giải quyết một loại bệnh lý ngày càng tăng trong một xã hội phát triển.
THAY TIM MỚI CHO NGƯỜI BỆNH TIM GIAI ĐOẠN CUỐI
            Ngày 7 
	tháng 12 năm 1967 đã đi vào lịch sử của ngành phẫu thuật tim mạch khi BS 
	Christian Bernard tiến hành ghép thành công tim ở người. Sau đó đã nảy sinh 
	vấn đề thải trừ mô ghép đã kìm hãm sự triển khai kỹ thuật mới này, mãi đến 
	1980 khi một thuốc ức chế miễn dịch hiệu quả được giới thiệu (cyclosporine) 
	thì việc ghép tim đã phát triển mạnh mẽ với 2.500 ca thực hiện mỗi năm hiện 
	nay. Riêng tại Mỹ mỗi năm chỉ thực hiện khoảng 2.000 ca trên tổng số 20.000 
	người cần được ghép tim do số lượng tim hiến tặng hạn chế nên chỉ định rất 
	nghiêm ngặt.
            Người 
	được phẫu thuật ghép tim phải hội đủ các tiêu chuẩn sau:
             -Bệnh 
	tim giai đoạn cuối có tiên lượng sống không quá 2 năm                  
	 hoặc chất lượng cuộc sống hằng ngày giảm nghiêm trọng dù             
	 điều trị tích cực.
             -Trong 
	tuổi hoạt động xã hội.
             -Không 
	có yếu tố loại trừ ghép tim.
            Các 
	yếu tố loại trừ khi có một trong các điều sau:
             -Nhiễm 
	trùng đang tiến triển.
             -Đang 
	bị nhồi máu phổi.
             -Tiểu 
	đường phụ thuộc insulin có tổn thương cơ quan đích.
             -Tăng 
	áp động mạch phổi không hồi phục.
             -Có 
	kháng thể độc tế bào trong máu.
             -Loét 
	dạ dày - tá tràng đang tiến triển.
             -Bệnh 
	ác tính đang tiến triển.
-Bệnh viêm phế quản mãn và bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính nặng.
             -Nghiện 
	rượu, ma túy.
             -Bệnh 
	lý toàn thân khác gây cản trở sự phục hồi sau phẫu thuật.
             -Bệnh 
	lý mạch máu não và mạch máu ngoại biên.
            Biến 
	chứng đáng sợ sau phẫu thuật ghép tim là việc thải trừ mảnh ghép xảy ra sớm 
	2-3 tuần sau, người ta cho bệnh nhân dùng thuốc ức chế miễn dịch liên tục và 
	mỗi 1 - 2 tuần phải lấy mẫu mô nội tâm mạc xét nghiệm (sinh thiết tim) nhằm 
	phát hiện sự thải tim ghép. Chi phí cho việc uống thuốc ức chế miễn dịch mỗi 
	năm từ 5.000 đến 10.000 đô la Mỹ, chi phí hằng năm để theo dõi và điều trị 
	sau phẫu thuật từ 100.000 đến 150.000 đô la Mỹ tùy thuộc số lần phải nhập 
	viện và sinh thiết tim, cũng có thể tốn nhiều hơn.
TIM NHÂN TẠO MỘT PHẨN
            Chúng ta 
	biết chi phí cho ghép tim mới rất cao, hơn nữa tìm kiếm quả tim hiến tặng 
	tương đối khó khăn nên các nhà khoa học đã cố gắng chế tạo những thiết bị 
	giúp một phần chức năng của tim (chủ yếu là chức năng bơm máu). Vào năm 1972 
	một nha sĩ ở Washington được mang một trái tim nhân tạo có tên Jarvik-7 giúp 
	bơm máu từ tim vào hệ tuần hoàn. Người nha sĩ này phải chịu đựng 112 ngày 
	khốn khổ bởi các biến chứng cho đến khi chết, hậu quả cuối cùng là co giật, 
	suy thận, suy hô hấp, sa sút trí tuệ, và cuối cùng suy nhiều cơ quan. Sau sự 
	kiện này báo New York Times đặt cho thiết bị này cái tên "con quỉ của kỹ 
	thuật y khoa". Nhưng qua năm 2000 này "con quỉ" trỗi dậy với nhiều tính năng 
	mới, khắc phục những khuyết điểm của các trái tim nhân tạo trước đây.
            
	Jarvik 2000 là một máy bơm mini trợ giúp hoặc thay thế cả chức năng 
	bơm máu của tâm thất trái tim. Nó là một mô tơ bé xíu gắn vào buồng tâm thất 
	trái bơm máu từ tâm thất này vào một ống gắn trực tiếp vào động mạch chủ, từ 
	đó máu giàu oxy đi khắp cơ thể. Tốc độ bơm máu tùy thuộc vào nhu cầu của cơ 
	thể người bệnh lúc nghỉ ngơi hay hoạt động, năng lượng cung cấp là pin 
	lithium. Từ tim dây điện nối ra ngoài qua da ở vùng sau đầu (sau vùng tai, 
	sẽ hạn chế nhiễm trùng) rồi nối xuống hệ thống kiểm soát và pin đeo ở thắt 
	lưng. Trái tim này rất trơn láng tránh bị hiện tượng đông máu và tránh tích 
	tụ vi trùng.
            
	Abiomed Artificial Heart là một trái tim nhân tạo khác với một bơm 
	thủy lực ở trung tâm thiết bị, chúng thay thế hoàn toàn chức năng tim. Thiết 
	bị này bơm máu từ tâm thất phải vào động mạch phổi lên phổi và từ tâm thất 
	trái vào động mạch chủ đến các cơ quan trong cơ thể. Năng lượng cung cấp cho 
	máy từ bên ngoài đeo ở bụng, truyền năng lượng cho thiết bị bên trong dưới 
	da bụng (không xuyên da nên không gây nhiễm trùng), các dây điện nối từ đây 
	đến trái tim nhân tạo.
            Với 
	những tiến bộ của kỹ thuật tim mạch, hy vọng trong các năm tới những người 
	bệnh tim sẽ được hưởng các phương thức điều trị mới này. Bệnh tim giai đoạn 
	cuối sẽ không còn là nỗi sợ hãi của thầy thuốc và bệnh nhân.


