XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH

BS. PHAN HỮU PHƯỚC

Thạc sĩ Lão khoa - BV NGUYỄN TRÃI

Xơ vữa động mạch còn có tên khác là vữa xơ động mạch, xơ mỡ động mạch hay nhiễm mỡ xơ mạch là một dạng phổ biến của xơ cứng động mạch. Xơ cứng động mạch (Arteriosclerosis) là rối loạn của động mạch đặc trưng bởi tiến trình dầy và cứng của thành động mạch làm giảm hoặc mất tuần hoàn qua động mạch. Dạng phổ biến của xơ cứng động mạch là xơ mỡ động mạch (atherosclerosis) đặc trưng bởi sự lắng đọng chất mỡ ở động mạch có kích thước vừa và lớn. Xơ mỡ động mạch và biến chứng của nó là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Bệnh lý ở tim, não thường là hậu quả của trực tiếp của quá trình tích tụ mỡ làm suy yếu động mạch cung cấp chất dinh dưỡng cho những cơ quan sống còn này.

Vì sao lại bị xơ vữa động mạch?

Xơ vữa động mạch là tiến trình tự nhiên trong quá trình lão hóa. Quá trình này thực sự đã xảy ra từ những năm 20 tuổi kéo dài cho đến tuổi trên 40 rõ nhất là sau 60 tuổi thì bắt đầu xuất hiện các biến chứng như thiếu máu cục bộ cơ tim gây cơn đau thắt ngực, thiếu lên não nặng hơn là tai biến mạch máu não, thiếu nuôi ở chân gây cơn đau ở chân khi đi lại nhiều... Người ta nhận thấy có những yếu tố sau đây thúc đẩy quá trình xơ mỡ động mạch: cao huyết áp, hút thuốc lá, bệnh tiểu đường, béo phì, tăng cholesterol máu và những thành phần mỡ gây hại khác trong máu. Những yếu tố khác cũng ảnh hưởng xấu đến tiến trình xơ mỡ động mạch là ít vận động thể lực, yếu tố gia đình. Tiến trình xơ mỡ động mạch ở nam nhanh hơn ở nữ, bệnh động mạch vành tim ở nam cao gấp 6 lần so với nữ ở tuổi 35 - 44.

Cần lưu ý tăng cholesterol máu không phải là nguyên nhân của xơ vữa động mạch. Nghĩa là người có cholesterol máu bình thường vẫn bị xơ mỡ động mạch.

Xơ vữa động mạch gây nguy hiểm gì?

Hậu quả của xơ mỡ động mạch là giảm lượng máu nuôi các cơ quan quan trọng trong cơ thể.

- Tại tim làm hẹp động mạch đến nuôi tim, gây ra cơn đau thắt ngực, nặng hơn là nhồi máu cơ tim.

- Tại não làm giảm lượng máu đến nuôi não, gây ra hiện tượng chóng mặt, tê người, yếu liệt, nói đớ, thậm chí là té xỉu nặng nhất là tai biến mạch máu não.

- Nếu động mạch đến nuôi chân bị ảnh hưởng, người bệnh có cảm giác đau ở chân khi đi nhiều, ngồi nghỉ chốc lát thì đỡ đau nếu đi tiếp tục thì đau xuất hiện lại. Trong y học gọi là đau cách hồi.

- Nếu động mạch đến nuôi thận bị hẹp có thể dẫn đến tổn thương thận.

- Tác hại khác là sự hình thành cục máu đông (thrombus) kết hợp với xơ mỡ động mạch có thể gây ra nguy hiểm như cục máu đông theo dòng máu đến não có động mạch não bị hẹp do xơ mỡ động mạch có thể gây tắc nghẽn làm máu không đến nuôi não được và lúc này tai biến mạch máu não xảy ra. Nếu cục máu đông chạy xuống chân gây tắc nghẽn có thể là hoại thư chân.

Điều trị xơ mỡ động mạch như thế nào?

Vì xơ mỡ động mạch là tiến trình tự nhiên trong quá trình lão hóa nên những can thiệp vào quá trình này cũng rất hạn chế. Chúng ta có thể giảm thiểu tối đa các yếu tố thúc đẩy quá trình xơ mỡ động mạch bằng các biện pháp:

- Ngừng hút thuốc lá

- Giảm cân nặng, không để bị béo phì

- Giảm cholesterol trong thức ăn

- Kiểm soát tốt bệnh tiểu đường, cao huyết áp, mỡ trong máu cao

- Khi đã có hiện tượng hẹp tắc động mạch đến nuôi tim, não, bác sĩ sẽ cho dùng thêm các loại thuốc cần thiết khác.

TẮNG CHOLESTEROL TRONG MÁU

Tăng cholesterol máu hay còn gọi là tăng mỡ trong máu, rối loạn mỡ trong máu. Trong bệnh lý này có tăng mỡ gây hại và giảm thành phần mỡ bảo vệ cho cơ thể.

Cholesterol không phải là chất hoàn toàn gây hại cho cơ thể. Chúng ta không thể sống được nếu không có cholesterol. Cholesterol là thành phần cấu tạo chủ yếu của màng tế bào, sợi thần kinh, và của nhiều nội tiết tố trong cơ thể. Ngoài ra gan còn dùng cholesterol sản xuất ra acid mật giúp ta tiêu hóa thức ăn.

Cholesterol có 2 nguồn gốc:

w Từ thức ăn hàng ngày trong thịt mỡ, trứng... chiếm 20% nhu cầu cholesterol trong cơ thể.

w Do gan tạo ra chiếm đến 80%. Gan có khả năng tổng hợp cholesterol từ những chất khác như đường đạm.

Mỡ trong máu hiện diện dưới 2 dạng chính là cholesterol và triglycerid.

Cholesterol được mang đi trong máu nhờ kết hợp với một chất có tên là lipoprotein. Có nhiều loại lipoprotein, loại có trọng lượng phân tử cao có tên là HDL, loại có trọng lượng phân tử thấp có tên là LDL, và nhiều loại lipoprotein khác mà ngày nay người ta chưa xác định được hết.

Cholesterol kết hợp với HDL được ký hiệu là HDL-c là một dạng cholesterol bảo vệ cho cơ thể chúng sống lại quá trình xơ mỡ động mạch bằng cách mang cholesterol từ trong thành mạch ra ngoài.

Trong cơ thể luôn có sự cân bằng giữa 2 quá trình gây hại và bảo vệ. Cho nên khi ta dùng từ tăng cholesterol hay tăng mỡ trong máu để chỉ tình trạng này là không chính xác mà ta phải gọi là rối loạn lipoprotein trong máu nghĩa là có tăng thành phần gây hại và giảm thành phần bảo vệ.

Như vậy khi muốn biết có bị tăng cholesterol trong máu hay không ta cần làm những xét nghiệm gì:

Xét nghiệm đầy đủ để đánh giá tình trạng mỡ trong máu gồm 4 thành phần:

- Cholesterol toàn phần

- LDL-cholesterol

- HDL-cholesterol

- Triglycerid

(cholesterol toàn phần là tổng của LDL-c và HDL-c với một số thành phần khác)

Để đánh giá xét nghiệm chúng ta cần lưu ý:

Loại mỡ trong máu

Bình thường

Không tốt

Cholesterol toàn phần

LHD-c

HDL-c

Triglycerid

Dưới 200mg%

Dưới 130mg%

Trên 45mg%

Dưới 160mg%

Trên 240mg%

Trên 160mg%

Dưới 35mg%

Trên 200mg%

Khi xem kết quả xét nghiệm ta cần lưu ý sự cân bằng giữa thành phần bảo vệ và thành phần gây hại. Nếu thành phần gây hại LDL-c cao nhưng thành phần bảo vệ HDL-c cũng cao thì ít gây lo ngại. Còn nếu thành phần gây hại cao và thành phần bảo vệ thấp thì nguy hiểm hơn. Ngoài ra khi đánh giá mức độ nguy hiểm của tình trạng tăng cholesterol chúng ta phải lưu ý đến tuổi, có bệnh tim mạch hay tiểu đường, cao huyết áp đi kèm theo hay không...

Ví dụ ta thử đánh giá kết quả xét nghiệm cholesterol máu của 1 người nam 48 tuổi, cân nặng 48kg, cao 168cm nhân dịp khám sức khỏe định kỳ:

                        Cholesterol toàn phần 260mg%

                        HDL-c 60mg%

                        LDL-c 170mg%

                        Triglycerid 180mg%

Nhận xét: Có tăng không nhiều các thành phần gây hại như cholesterol toàn phần, LDL-c và Triglycerid nhưng thành phần bảo vệ còn cao HDL-c = 60mg%. Anh này không có bệnh tim mạch hay tiểu đường, tuổi cũng không cao nên chưa cần dùng thuốc điều trị hạ cholesterol vội mà có thể áp dụng phương pháp điều trị hạ cholesterol không dùng thuốc.

ĐIỀU TRỊ KHÔNG DÙNG THUỐC

Trong phần điều trị không dùng thuốc nếu thực hiện tốt bạn có thể giảm được 15% - 20% cholesterol máu. Điều trị không dùng thuốc gồm các phần sau đây:

- Ngưng hút thuốc lá

- Thay đổi chế độ ăn uống

- Tập thể dục thể thao

Ngưng hút thuốc lá là việc làm cần thiết quan trọng với bệnh nhân tăng cholesterol máu, thuốc lá là yếu tố góp phần làm thúc đẩy quá trình xơ mỡ động mạch và làm tăng cholesterol gây hại LDL.

Trong chế độ ăn uống bạn cần lưu ý 3 vấn đề

1. Nếu bị béo phì hay dư cân nặng bạn nên giảm ăn chất béo: gần như bạn nên giới hạn ăn tất cả các loại chất béo như dầu, mỡ, bơ, kem... Chất béo ăn vào hàng ngày không quá 30% nhu cầu năng lượng của cơ thể.

2. Giảm ăn mỡ bảo hòa: đừng ăn quá 1/3 mỡ bảo hòa trong nhu cầu chất béo hàng ngày. Mỡ bảo hòa có trong thành phần bơ, phô mai, kem, chocolate, dầu dừa... Bạn cũng cần lưu ý là shortening và margaring cũng làm tăng cholesterol máu.

3. Giảm cholesterol trong bữa ăn hàng ngày: đừng ăn quá 300mg cholesterol mỗi ngày. Tránh ăn các loại thức ăn có nhiều cholesterol như: cream, trứng, phủ tạng động vật như gan, lưỡi.

Ngoài việc kiêng cữ trong ăn uống thì việc tập thể dục sẽ góp phần tăng tác dụng của việc kiêng ăn. Bác sĩ điều trị sẽ đề nghị bạn hình thức tập thể dục và chơi thể thao phù hợp với sức khỏe của bạn.

Tập thể dục thể thao nhịp nhàng dưới các hình thức: đi bộ, chạy bộ, đạp xe đạp,... ở mức độ không gắng sức là phù hợp.

Tập đủ thời gian và thường xuyên: Đây là điều không dễ dàng, mỗi lần tập cố gắng đủ thời gian 30 - 45 phút, ít nhất tập thường xuyên 3 lần trong 1 tuần.

Nếu bạn bị béo phì, dư cân nặng và không tập thể dục nhiều năm nay nên quyết tâm tập luyện, lúc đầu tập ít sau tăng dần cố gắng tập đều đặn. Lúc đầu có thể thấy mệt, buồn ngủ vào buổi sáng sau tập nhưng bạn sẽ quen dần và thấy khỏe hơn.

Duy trì và phát triển vận động: cố gắng xây dựng thời khóa biểu tập thể dục thể thao. Coi đó như là một thú vui. Bạn có thể xây dựng nhóm bạn cùng tham gia chương trình tập thể dục thể thao.

ĐIỀU TRỊ CÓ DÙNG THUỐC

Sau khi áp dụng chế độ điều trị không dùng thuốc mà vẫn không cải thiện được tình trạng rối loạn cholesterol máu, đặc biệt là LDL còn cao thì bác sĩ sẽ cho bạn dùng thêm thuốc hạ cholesterol máu. Bạn nên dùng dưới sự chỉ định và theo dõi của bác sĩ vì thuốc ngoài tác dụng hạ cholesterol máu còn gây nhiều tác dụng phụ khác.

Hiện nay có nhiều nhóm thuốc hạ cholesterol máu: nhóm fibrate, nhóm statin, nhóm resin, nhóm niacin.

Nhóm firate như: Fenofibrate (Lypanthyl), Gemfibrozil (Lopid)... là những thuốc có tác dụng hạ triglyceri, LDL-c, làm tăng HDL-c.

Nhóm statin như: Fluvasstatin (Lescol), Lovastatin (Mevacor), Simvastatin (Zocor), Pravastatin (Pravacholesterol), Atorvastatin (Lipitor), Cervastatin (Baycol) là những thuốc có tác dụng hạ cholesterol máu mạnh. Khi dùng phối hợp với Niacin có thể giảm nguy cơ cơn đau tim tái phát lần 2.

Nhóm niacin: có tác dụng làm giảm LDL-c, Triglyceri để làm tăng HDL-c.

Nhóm resin như: Cholesterolestyramine (Questran), Colestipol (Colestid) được dùng hơn 20 năm nay có tác dụng làm giảm cholesterol máu.

Nếu điều trị tốt rất có lợi cho sức khỏe của bạn. Theo Tổ chức sức khỏe thế giới cho biết nếu cholesterol toàn phần giảm được 23mg% ở người tuổi 40 sẽ giảm 54% nguy cơ bệnh tim mạch, còn ở tuổi 70 thì giảm 20% nguy cơ có bệnh tim mạch. Còn nếu HDL-c tăng 1,2mg% thì giảm được 3% nguy cơ bệnh tim mạch.

Kế hoạch lâu dài

Khi cơ thể đã có vấn đề về rối loạn cholesterol máu bạn nên có kế họach lâu dài. Nên thực hiện tốt việc điều trị không dùng thuốc. Việc dùng thuốc phải dưới sự kiểm soát của bác sĩ vì các thuốc hầu hết có hại cho gan và gây nhiều tác dụng phụ khác. Điều quan trọng là hầu hết các thuốc này khá đắt tiền mà thời gian điều trị có thể kéo dài trong nhiều năm.

 

 

Bệnh mạch vành

Béo phì làm hư hại các chức năng của tim
Bệnh nhân tim không nên ngừng dùng thuốc hạ cholesterol
Bệnh động mạch vành: nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị
Chăm sóc bệnh nhân suy mạch vành tại nhà
Cách chăm sóc bệnh nhân suy mạch vành tại nhà
Cơn đau thắt ngực - dấu hiệu thiếu máu nuôi tim
Cơn đau thằt ngực
Một phương pháp điều trị dự phòng nhồi máu cơ tim có kết quả cao
Nhồi máu cơ tim không còn là bệnh của người lớn tuổi
Những bệnh nguy hiểm do mỡ trong máu cao gây ra
Những điều cần biết về cholesterol máu
Phòng ngừa tai biến nhồi máu cơ tim: đâu phải chỉ có thuốc…
Phòng ngừa đột tử sau nhồi máu cơ tim
Tin mừng cho bệnh nhân bị phấn kết ðộng mạch do cholesterol
Tập luyện để tránh tái phát nhồi máu cơ tim

Bệnh huyết áp

Bệnh cao huyết áp
Bệnh cao huyết áp - BS. Nguyễn Văn Đức
Bệnh tăng huyết áp
Cao huyết áp - BS Nguyễn Thanh Sơn
Cao huyết áp và các tai biến
Cao huyết áp và điều trị nội khoa
Cách nhìn mới về số đo huyết áp
Dùng thuốc chữa bệnh cao huyết áp nên đưa con số huyết áp xuống tới mức nào?
Hiệu quả của việc điều trị kết hợp trong bệnh cao huyết áp
Hạ huyết áp
Người tăng huyết áp nên sống như thế nào
Theo dõi bệnh nhân tăng huyết áp như thế nào?
Tập thể dục ở bệnh nhân cao huyết áp
Tự đo lây huyết áp của mình có nên chăng?
Điều chỉnh lối sống để điều trị bệnh tăng huyết áp
Đánh giá hiện nay về bệnh cao huyết áp: kết quả điều trị và hiệu lực của loại thuốc

Bệnh động mạch - tĩnh mạch

Bệnh giãn tĩnh mạch nông và suy tĩnh mạch mạn tính
Bệnh giãn tĩnh mạch ở giáo viên
Bệnh lý động mạch ngoại vi cần được chẩn đoán sớm
Lợi ích của việc chẩn đoán sớm bệnh lý động mạch ngoại vi
Mổ thắt ống thông động mạch bằng nội soi lần đầu ở Việt Nam
Phát hiện và xử trí phình tách động mạch chủ
Phát minh mới giúp tìm tĩnh mạch chính xác
Vỡ phình giả động mạch do tiêm chích ma túy
Xơ vữa động mạch
Điều trị giãn tĩnh mạch không gây đau

Các bệnh tim khác

10 điều hay nhầm lẫn về bệnh tim mạch
Bệnh nhân ghép tim nhân tạo tự hành đầu tiên bị đột quỵ
Bệnh suy tim thế kỷ xxi
Bịt lỗ thông tim không cần phẫu thuật hở
Cho phép sử dụng tim nhân tạo đầu tiên
Cuộc cách mạng trong phẫu thuật tim mạch
Các loại bệnh van tim
Có thể dự phòng đột tử do bệnh tim
Hai nghiên cứu mới về bệnh tim mạch
Hen tim
Kéo dài cuộc sống cho trái tim của người chết
Lần đầu tiên đặt van tim nhân tạo không cần phẫu thuật
Máy hỗ trợ tâm thất - hy vọng mới cho bệnh nhân suy tim
Máy tạo nhịp tim mới cho bệnh nhân suy tim
Ngoại tâm thu là gì?
Những quả tim nhân tạo ở thiên niên kỷ mới
Phát hiện mới về tác dụng giảm nguy cơ ðau tim
Phình động mạch chủ bụng
Phòng đột tử do bệnh tim
Phần lớn các ca đau tim có thể dự đoán được
Phối hợp trị liệu trong tim mạch học
Testosterone có lợi có đàn ông bị suy tim
Thông tin mới về khả năng tự "sửa chữa" của tim
Tìm thấy hoóc môn có thể trị bệnh tim
Túi lưới giúp bệnh nhân lớn tim
Ðặt máy tạo nhịp tim vĩnh viễn
Đau tim dễ xảy ra khi trời lạnh
Đau tim và suy tim
Đánh trống ngực

Thay đổi lối sống cải thiện bệnh tim

Béo phì không gây nguy hại cho người bị suy tim
Bệnh nhân tim mạch có thể tự điều trị
Bệnh nhân tim mạch nên cẩn thận với thời tiết lạnh
Bệnh nhân tim phải cẩn thận khi dùng ibuprofen
Bệnh tim và dược thiện
Chăm sóc trẻ em có thể gây bệnh tim
Kháng sinh có thể giúp giảm nguy cơ tái phát cơn đau tim
Luyện tập giúp ngăn ngừa cơn đau tim tái phát
Lười vận động dễ bị bệnh tim mạch
Muốn có trái tim khỏe mạnh
Mê tín có thể khiến bệnh nhân tim sợ đến chết
Nhiều mỡ nội tạng dễ bị bệnh tim
Những bệnh tim mạch trong xã hội phát triển
Nên tập kiềm chế để bảo vệ trái tim
Nóng tính, bi quan có hại cho tim
Năm phương pháp phòng ngừa bệnh tim mạch
Năng vận động để ngừa đau tim khi mãn kinh
Thời hạn eo hẹp gây hại cho tim
Tập thể thao giúp tránh bệnh suy tim
Tắm hơi giúp cho tim khỏe mạnh
Uống nhiều rượu có thể bị loạn nhịp tim
Uống rượu bia vừa phải có lợi cho tim
Vitamin E rất có ích cho tim
Đi xe đạp - 'Viagra' cho các bệnh nhân tim

THƯ MỤC Y HỌC PHỔ THÔNG
Bệnh da liễu
Bệnh hệ huyết học
Bệnh hệ hô hấp
Bệnh hệ tim mach
Bệnh hệ tiêu hóa
Bệnh hệ tiết niệu
Bệnh ngoại khoa
Bệnh nhãn khoa
Bệnh nội tiết
Bệnh tai mũi họng
Bệnh thường gặp
Bệnh thần kinh
Bệnh truyền nhiễm và ký sinh
Bệnh tâm thần
Bệnh ung bướu
Da liễu - Bệnh của tóc
Da liễu - Bệnh dị ứng
Da liễu - Bệnh ngoài da
Da liễu - Chăm sóc da
Da liễu - Các vấn đề về da
Da liễu - Mụn
Hệ cơ xương khớp - Bệnh cơ và tập luyện
Hệ cơ xương khớp - Bệnh khớp và gout
Hệ cơ xương khớp - Bệnh xương và cột sống
Pháp y
Phương tiện chẩn doán
Sức khỏe du lịch
Sức khỏe sinh sản
Thẩm mỹ