CHẨN ĐOÁN ĐIẾC
BS. PHAN HỮU PHƯỚC
Thạc sĩ Lão Khoa - BV Nguyễn Trãi
(Tiếp theo kỳ trước)
Tầm soát điếc thường được đề nghị cho tất cả các người già. Người già thường hay giấu kín chứng điếc của họ, cảm thấy xấu hổ vì nó và thường xem nó tương đương với tuổi già. Những người không có công việc làm và những người có ít mối liên hệ với xã hội có khi không nhận ra được bệnh điếc của mình trong những trường hợp điếc nhẹ, và vì vậy có nhiều nguy cơ bị chấn thương và sau đó là cô lập trong xã hội.
Tầm soát có thể thực hiện ở các trung tâm cảm giác và có thể thực hiện bằng nhiều cách. Các bảng câu hỏi có thể được đưa cho chính người bệnh hoặc người thân trong gia đình, những người hay tiếp xúc gần gũi. Thử xét nghiệm thì tốt hơn nhờ sử dụng các dụng cụ đã được định chuẩn.
Biết được các tính chất của điếc sẽ giúp hướng dẫn lượng giá và giúp BS lựa chọn phương pháp điều trị đúng hơn. Thính lực đồ nên được làm lúc khởi đầu, khi bệnh diễn tiến và cùng với mức độ trầm trọng của bệnh. Ù tai thường đi kèm với điếc do tuổi già. Điếc 1 bên, không đối xứng hoặc lúc có lúc không thì không phải là đặc điểm của điếc do tuổi già. Khám thực thể thì thường không phát hiện được gì, ngoại trừ khi ráy tai là nguyên nhân của điếc.
Khi có nghi ngờ bị điếc, phải đến khám chuyên khoa TMH hoặc "tai học". Để chẩn đoán, tối thiểu phải có khám lần sau, làm thính đồ toàn bộ bao gồm đánh giá âm đơn (tiếng động với tần số đơn được tạo ra bằng điện), lời nói và màng nhĩ. Các biểu hiện bất đối xứng của thính đồ hoặc các triệu chứng sau ốc tai nên được tiếp tục bởi các thử nghiệm phản ứng nghe của cuống não và chụp cắt lớp não để loại trừ các khối u thần kinh hoặc u góc cầu tiểu não.
CÁC TEST ĐO CHỨC NẮNG THÍNH GIÁC
- Weber test: Âm thoa 512 Hz đặt ở giữa đường ở trán. Người bình thường sẽ nhận được dao động đều nhau ở hai tai. Người bị điếc dẫn truyền sẽ nhận được dao động lớn hơn ở bên bị bệnh.
- Rinne test: Cần âm thoa đặt ở xương chũm và ấn đều; và sau đó âm thoa được đặt phía trước ống tai ngoài. Thông thường, âm dao động sẽ được nghe lớn hơn ở ống tai ngoài (không khí dẫn truyền âm thanh lớn hơn xương). Nếu ngược lại thì là điếc dẫn truyền.
- Thính đồ toàn bộ: Đánh giá âm đơn và người tiếp nhận lời nói và màng nhĩ đồ. Nguồn đối với âm đơn ở khoảng cách 1 hoặc 1/2 octave thì đạt được tần số từ 250 - 8000Hz. Các xét nghiệm được thực hiện bởi cả bằng dẫn truyền không khí hoặc dẫn truyền qua xương (đường âm thoa đặt ở xương chũm)
- Ngưỡng tiếp nhận ngôn ngữ: Được xác định như là mức độ mà người bệnh có thể nhận ra đúng 50 % các từ đôi có dấu nhấn tương đương (ví dụ cowboy). Người tiếp nhận lời nói nên ở khoảng 10 dB của trung bình âm đơn.
Điều trị ĐIẾC
Khuếch đại âm thanh là chiến lược điều trị tốt nhất nếu bệnh điếc không thể điều trị được bằng thuốc hoặc phẫu thuật. Điếc tiếp nhận thì không phải là không có lợi ích khi dùng máy trợ thính.
Một thử nghiệm có dạng thính đồ dốc xuống rõ, giảm trầm trọng khả năng phân biệt lời nói hoặc có sự khác biệt giữa ngưỡng nhạy cảm và ngưỡng thấy khó chịu có thể khó thích nghi với các thiết bị khuếch âm. Tuy nhiên, không có yếu tố nào trong bệnh sử, khám thực thể, hoặc do thính đồ có thể dự đoán chính xác 1 người bệnh điếc ở người già có thể tái hội nhập bằng cách trợ thính hay không? Các yếu tố có thể đóng góp vào sự thành công trong việc trợ thính bao gồm ý muốn của người bệnh muốn giao tiếp, và đặc điểm của thính đồ. Kinh nghiệm của chuyên viên về tai trong việc phối hợp với bệnh nhân lớn tuổi và xử lý các giới hạn về thể chất cũng như tâm lý có lẽ là yếu tố quan trọng giúp cho thành công trong việc trợ thính cho người bệnh.
- Tăng cường độ âm thanh lúc nói chuyện: nói lớn hơn bình thường là cách giao tiếp hiệu quả nhất khi các tiếng ồn trong môi trường không có hoặc giảm tối thiểu. Người trò chuyện với người điếc phải đảm bảo rằng gương mặt của mình minh họa tốt cho lời nói và người nghe phải chú ý. Tối ưu nhất là người nói phải cách người nghe khoảng 1 mét, môi và sự biểu cảm của khuôn mặt phải được nhìn thấy nói chậm và rõ ràng. La to không cần thiết và có thể làm khả năng phân biệt âm thanh của người bệnh tệ hơn. Nếu người bệnh không hiểu 1 câu nào, nên lập lại cả câu đó hơn là lập lại từng chữ một.
w Các thiết bị trợ thính
Các thiết bị này giúp cho bệnh nhân điếc khắc phục các trở ngại khi dùng điện thoại, truyền hình, radio hoặc nói chuyện trước đám đông. Thiết bị khuếch đại điện thoại có thể mang bên mình hoặc không, giúp khuếch đại tín hiệu gọi đến bằng tiếng chuông reo lớn hơn hoặc đèn chớp sáng. Một số thiết bị khác có thể khuếch đại các tín hiệu truyền hình và radio đủ để cho người bệnh điếc nghe trong khi các thành viên khác trong gia đình vẫn nghe mức bình thường. truyền hình cáp hữu ích hơn cho những người mắt còn tốt mà thính lực không đủ để nghe các tín hiệu khuếch đại.
Đối với các giao tiếp trong nhóm nhỏ, các thiết bị tương đối rẻ bao gồm 1 micro có thể mang bên mình, 1 máy khuếch đại và bộ nghe đeo ở tai có thể được dùng. Đối với giao tiếp đám đông (ví dụ hội nghị ở sảnh đường lớn hoặc nhà thờ), nên có các hệ thống khuếch đại âm thanh không dây dùng tia hồng ngoại và người bệnh có thể mượn một bộ phận nhận truyền âm thanh này.
w Máy trợ thính (Hearing Aids)
Khuếch đại âm thanh bằng máy trợ thính có thể giúp cả người điếc dẫn truyền hoặc điếc tiếp nhận. Mặc dù tất cả thiết bị trợ thính rất thay đổi về kích thước và cường độ, chúng đều có một số nét chung: 1 microphone nhận âm thanh, chuyển thành các tín hiệu điện và đưa các tín hiệu này đến một máy khuếch đại để làm gia tăng cường độ. Tín hiệu đưa vào được khuếch đại lên bao nhiêu lần khi thể hiện bằng tín hiệu phát ra của máy trợ thính được gọi là độ trợ thính. Bộ phận truyền tín hiệu phát ra của máy trợ thính vào ống tai và ảnh hưởng đến tính chất của tín hiệu phát ra.
Chọn lựa máy trợ thính bằng cách đưa ngưỡng của bệnh nhân ngang qua các dãy tần số và khả năng phân biệt âm sắc với các dạng máy trợ thính được đề nghị cho các đặc điểm này. Một số bệnh nhân có ngưỡng âm đơn (pure-tone) tương đối bình thường cho thấy khả năng phân biệt âm sắc rất kém và có lẽ là máy trợ thính không giúp ích gì nhiều. Một số bệnh nhân điếc cần máy trợ thính có kiểm soát các tín hiệu nhận và phát nhằm tránh bị đau do khuếch âm quá mức.
Khi máy trợ thính đã được chọn lựa, người bệnh được hướng dẫn
cách để thích nghi với các thiết bị này cũng như cách quản lý và vệ sinh máy.
Các yếu tố quan trọng quyết định người bệnh có sử dụng thành công máy trợ thính
hay không bao gồm sự năng động, nhu cầu giao tiếp và sự mong muốn một cách thích
hợp cái gì sẽ đạt được khi dùng máy trợ thính. Định kiến của xã hội cũng như giá
cao quá mức của một máy trợ thính nhiều khi là một trở ngại quá lớn.
Có một thời kỳ loại máy trợ thính được dùng phổ biến nhất là máy gắn sau tai.
Máy móc lên phía trên và sau vành tai và nối với phần chính của máy bởi các ống
mềm. Các kỹ thuật hiện đại sau này chế tạo máy nhỏ gọn bằng một con sò có thể
nhét vào lỗ tai trở nên phổ biến hơn một phần vì chúng ít gây phiền phức. Nhìn
chung máy càng nhỏ thì khả năng khuyếch âm càng kém. Quan trọng hơn nữa việc sử
dụng các thiết bị nhỏ đôi khi khá khó khăn đối với một số người cao tuổi.
Máy trợ thính kiểu truyền tín hiệu cho tai lành thì được dùng cho những người điếc hoàn toàn ở một tai và tương đối bình thường ở tai còn lại. Một Microphone chuyển trực tiếp âm thanh từ tai điếc nhiều sang điếc ít hơn. Nếu tai bên điếc cũng bị hư hỏng, tín hiệu từ tai điếc nhiều sẽ được khuyếch đại lên, loại máy trợ thính này được gọi là BICROS. Lúc đầu hai bộ phận này được nối với nhau bằng dây, về sau các kiểu hiện đại hơn, chúng có thể liên lạc với nhau qua tín hiệu sóng FM.
Máy trợ thính kiểu "lớn" là dạng hiệu quả nhất (tạo ra độ khuyếch âm cao nhất) có thể dấu trong túi áo hoặc mang vào người bằng dây da, được nối với bộ phận nghe ở tai bằng dây. Người già, nhất là những người khó đi lại, thường cảm thấy dễ dàng hơn khi dùng máy trợ thính loại này. Các dạng khác của loại này là loại dùng cho người già được thiết kế để dễ cầm hơn. Những máy hiện đại hơn và có bộ phận điều khiển từ xa giúp điều khiển dễ dàng hơn.
Máy trợ thính có rất nhiều loại biến hóa tùy theo nhu cầu sử dụng từng cá nhân. Nút T giúp nói điện thoại qua máy trợ thính, kiểm soát mức khuyếch đại tự động giúp điều chỉnh âm thanh to nhỏ về cùng một độ lớn âm thanh, các thiết bị khác giúp cải thiện tỉ lệ tiếng nói/tiếng ồn và nhờ vậy cải thiện khả năng nghe.
Ngược lại với các máy trợ thính dẫn truyền qua không khí vốn cần phải có cực nghe ở tai, các máy trợ thính dẫn truyền qua xương được đặt tiếp xúc trực tiếp với đầu, thường là nằm trên xương chũm với một đầu nghe. Các máy trợ thính qua xương thường được dùng khi các "máy trợ thính trong tai" bị chống chỉ định như trong trường hợp chảy mủ tai không kiểm soát được hoặc bị loét ống tai.
- Ghép ốc tai được áp dụng ở những người lớn bị điếc rất nặng, các máy trợ thính mạnh nhất cũng không giúp ích được. Một microphone nhận âm thanh và dẫn nó vào 1 "bộ xử lý tiếng nói", bộ phận xử lý này biến đổi các tín hiệu và dẫn truyền nó sang bộ phận tiếp nhận đặt ngoài tai; bộ phận này sẽ chuyển thông tin đến bộ phận trong thiết bị được cấy ghép trong ốc tai. Các tín hiệu này sẽ kích thích các thành phần thần kinh còn lại của thính giác để người bệnh nghe được âm thanh.
Ghép ốc tai thường đòi hỏi phải mổ xương chũm và nằm viện. Thiết bị khá đắt tiền và chi phí bảo hiểm khá cao. Mặc dù kỹ thuật này chỉ phục vụ cho một số đối tượng, nó có thể đem lại sự khác biệt lớn lao trong đời sống của những người điếc hoàn toàn.
w Các thiết bị tạo dao động: (Vibrotactile devices)
Các thiết bị này đặt ở cổ tay hoặc xương ức hoặc xương chậu để chuyển lời nói và các âm thanh trong môi trường thành các dao động có thể nhận biết qua da. Nếu được hướng dẫn, người bệnh có thể học cách nhận biết, khu trú âm thanh và sử dụng các thông tin dao động để giao tiếp tốt hơn.
TÁI GIÁO DỤC
Mục đích của tái giáo dục là đạt được thính lực tốt nhất để có thể bằng cách lưu ý trong giao tiếp nói với người trò chuyện nói lớn hơn và quan sát phát âm cũng như luyện nghe.
* Nói và nhìn: Khi trò chuyện thông tin tiếp nhận không những bằng tiếng nói mà còn bằng cách quan sát biểu hiện của khuôn mặt và điệu bộ. Những cách ra hiệu như vậy giúp ích rất nhiều cho thính lực.
* Luyện nghe: Thường kết hợp với một dụng cụ khuếch âm đã được hiệu quả cao nhất. Luyện nghe có thể giúp người bệnh phân biệt các âm thanh khác nhau bằng cách nghe đơn thuần, thậm chí tập cho họ có thể phân biệt được những khác biệt âm thanh rất nhỏ, nhất là đối với những âm thanh tương tự nhau .
Với phương pháp luyện nghe, cũng như với bất kỳ khía cạnh nào trong chương trình tái giáo dục bệnh nhân, sự quan tâm cuả các thành viên trong gia đình sẽ hỗ trợ rất nhiều cho người bệnh. Các thành viên trong gia đình không chỉ khuyến khích giúp đỡ người bệnh mà còn có thể nhắc người bệnh khi trí nhớ ngắn hạn của họ bị giảm.