Chữa di tinh, hoạt tinh bằng y học cổ truyền
Nhân sâm có tác dụng chữa hoạt tinh. |
Đây là các bệnh của 3 tạng: tâm, can, thận. Bình thường, tinh dịch chỉ được xuất khi việc giao hợp đạt đến ngưỡng khoái cảm cực độ. Nếu các tạng trên bị bệnh, tinh có thể ra không theo ý muốn. Tình trạng này được Đông y chia làm 2 loại: di tinh và hoạt tinh.
Các nguyên nhân chủ yếu gây 2 bệnh trên bao gồm:
- Quân hỏa, tướng hỏa quá vượng, làm cho mối quan hệ giữa quân hỏa và tướng hỏa mất thăng bằng khiến thận tinh bị ảnh hưởng, gây hoạt tinh.
- Thận hư không bế tàng: Thận âm hư thì hỏa thịnh, ảnh hưởng đến cơ quan bế tàng tinh gây ra di tinh. Tình trạng âm dương lưỡng hư, khí hạ nguyên quá suy yếu cũng gây hoạt tinh không cầm được.
- Thấp nhiệt hạ tiêu uất lại, làm nhiễu động tâm thận gây di tinh.
Một số thể bệnh và cách chữa trị:
1. Hoạt tinh do quân hỏa, tướng hỏa quá vượng:
Triệu chứng: Tinh ra cả ngày và đêm, ra không phụ thuộc cảm hứng. Bệnh nhân ngủ ít, ngủ không yên, đầu choáng, mắt hoa, hồi hộp, đánh trống ngực, có khi thỉnh thoảng đau nhói vùng tim. Chất lưỡi đỏ. Phép điều trị là định tâm, an thần, cố tinh.
Bài thuốc: Nhân sâm, bồ hoàng, viễn chí, táo nhân mỗi thứ 8 g; phục linh, phục thần, mạch môn, khiếm thực, kim anh tử mỗi thứ 16 g; long nhãn 15 g. Viễn chí chế bỏ lõi, mạch môn bỏ lõi. Các vị trên (trừ long nhãn) sao giòn, tán mịn. Long nhãn nghiền với mật. Tất cả làm thành viên. Mỗi ngày uống 60 g, chia đều 4 lần, uống trong ngày.
2. Di tinh do thận hư không bế tàng:
Triệu chứng: Di tinh chủ yếu về đêm, hồi hộp, mất ngủ. Nếu âm hư, bệnh nhân đau lưng, ù tai, mệt mỏi, gầy yếu, đầu choáng, mắt hoa, họng miệng khô, tiểu tiện sẻn, lưỡi đỏ, rêu vàng. Nếu dương hư, bệnh nhân đau lưng, ù tai, chân tay lạnh, phân nát, có thể kèm theo hoạt tinh, liệt dương.
- Nếu âm hư, phép điều trị là tư âm, bổ thận, cố tinh. Dùng hoàng bá, tri mẫu, khiếm thực, kim anh tử mỗi thứ 16 g; thục địa, quy bản mỗi thứ 30 g. Các vị trên (trừ thục địa) sao giòn, tán mịn. Thục địa nghiền mịn, chưng với mật mía. Tất cả làm thành viên bằng hạt nhãn, sấy khô, ngày uống 80 g, chia đều 4 lần, uống trong ngày.
- Nếu dương hư, phép điều trị là ôn bổ thận dương, sáp tinh. Dùng thục địa 32 g, lộc giác giao 24 g, thỏ ty tử 16 g; phá cố chỉ, bá tử nhân, phục linh mỗi thứ 12 g. Phá cố chỉ tẩm muối sao; thỏ ty tử, bá tử nhân, phục linh sao giòn, tán mịn; thục địa nghiền nát chưng với mật mía. Tất cả làm thành viên bằng hạt nhãn, sấy khô. Uống mỗi ngày 80 g, chia đều 4 lần, uống trong ngày.
Lưu ý: Tùy theo từng thể bệnh, có thể kết hợp uống thuốc và châm cứu.
BS Trần Văn Bản, Sức Khoẻ & Đời Sống