Bệnh của 12 đôi dây thần kinh sọ não
Tác giả : TS. ÐÀO KỲ HƯNG
Từ lâu các nhà giải phẫu đã phát hiện có 12 đôi dây thần kinh (TK) xuất phát từ não, chui qua các lỗ của hộp sọ, phân nhánh vào các cơ ở đầu, mặt, cổ và cơ quan nội tạng. Người ta đánh số thứ tự từ trên xuống dưới, từ đường giữa ra hai bên.
Mỗi dây thần kinh có một nhiệm vụ và nếu bị tổn thương sẽ gây ra một loại bệnh. Sau đây xin giới thiệu sơ lược từng đôi dây TK và một vài bệnh hay gặp của các dây TK đó.
Dây số I: hay dây khứu giác.
Các sợi TK bắt nguồn từ niêm mạc mũi, chui qua lỗ sàng xương bướm ở đáy não vào hành khứu đi vào não. TK khứu giác nhận cảm giác về các mùi khi ngửi.
Rối loạn về ngửi có thể do viêm niêm mạc mũi, do thịt thừa (pôlip). Mất hẳn cảm giác ngửi có thể vì các sợi TK bị chèn ép do u hoặc bị đứt do chấn thương.
Dây số II: hay dây thị giác.
Bắt nguồn từ các tế bào ở võng mạc, các sợi tụm lại thành dây TK thị giác, chui qua 2 lỗ thị giác vào sọ, tận cùng vào trung tâm thị giác ở vỏ não. Dây TK thị giác dẫn truyền những cảm giác về ánh sáng, các đồ vật về não. Các bệnh thường gặp như teo dây TK thị, người bệnh nhìn các vật như nhìn vào một cái ống nứa. Bệnh bán manh là chỉ nhìn thấy 1 bên mắt, thường do khối u đè vào dây thị giác. Các bệnh ở võng mạc cũng làm giảm hoặc mất sức nhìn hoàn toàn.
Dây số III: hay dây vận nhãn chung.
Ði từ cuống đại não (trung não), chạy ra phía trước, vào ổ mắt, vận động một số cơ mắt đưa nhãn cầu lên xuống và vào trong. Dây III tổn thương gây mắt lác ra ngoài. Nguyên nhân thường do viêm màng não, chảy máu ở cuống não, chấn thương nền sọ hay viêm tắc tĩnh mạch xoang hang.
Dây số IV: hay dây cảm động.
Ði từ trung não, chạy vào ổ mắt, chi phối cơ chéo to, vận động đưa mắt ra ngoài, xuống dưới. Khi tổn thương dây TK số IV, mắt sẽ không đưa xuống thấp được. Nguyên nhân tổn thương dây IV giống dây III.
Dây số V: hay dây tam thoa.
Xuất phát từ cầu não, dây V chia thành 3 nhánh là nhánh mắt, nhánh hàm trên và nhánh hàm dưới. Nhánh mắt, nhánh hàm trên cảm giác vùng mắt, hốc mũi, da mí trên, trán, da đầu, phần trên hầu, các tuyến hạnh nhân. Nhánh hàm dưới, cảm giác 2/3 trước lưỡi và răng hàm dưới, tuyến nước bọt. Các sợi vận động chi phối cơ cắn, cơ nhai. Tổn thương dây TK V thường gây mất cảm giác các phần dây phân nhánh, làm bệnh nhân nhức đầu hoặc không cắn chặt, tức hàm dưới kém vận động. Nguyên nhân: Do tổn thương nền sọ, viêm đa dây TK, bị Zona TK.
Dây số VI: hay dây vận nhãn ngoài.
Ði từ rãnh hành - cầu ra trước, vào ổ mắt, phân nhánh vào cơ thẳng ngoài, đưa nhãn cầu liếc ra ngoài. Tổn thương dây VI, mắt bệnh nhân sẽ bị lác vào trong. Nguyên nhân tổn thương dây VI giống dây III.
Dây số VII: hay dây TK mặt.
Vận động các cơ ở mặt. Xuất phát từ rãnh hành cầu, qua xương đá, lỗ ức - chũm, bám vào các cơ ở mặt, cảm giác một số tuyến nước bọt, nước mắt. Liệt dây TK mặt, triệu chứng quan trọng là lệch mặt về bên lành, nhân trung kéo về bên không liệt. Mắt bên liệt nhắm không kín nếu liệt dây TK ngoại biên. Có người liệt rõ, có người liệt kín đáo (chỉ nhìn rõ khi cười, há miệng, huýt sáo), ăn và uống nước hay bị rơi vãi, đôi khi nói khó. Nguyên nhân của liệt mặt thể trung ương là chảy máu não, nhũn não (tai biến mạch máu não), u não thường kèm liệt nửa thân. Liệt dây VII ngoại biên do viêm màng não, bệnh ở tai giữa, xương đá, do can thiệp sản khoa bằng focxep, do viêm đa dây TK Zona và liệt do lạnh.
Dây số VIII: hay dây TK thính giác.
Dây VIII gồm hai nhóm sợi. Phần ốc tai (phụ trách nghe). Phần tiền đình (phụ trách giữ thăng bằng và tư thế). Hai nhóm hợp lại thành dây VIII chui vào hộp sọ và tận cùng ở vỏ não. Tổn thương dây VIII có thể ảnh hưởng đến sức nghe và hội chứng tiền đình là chóng mặt, ù tai. Nguyên nhân có thể do u chèn ép, chấn thương sọ, tăng huyết áp, do một số bệnh xơ động mạch ở tiền đình, ốc tai, do viêm màng não, viêm thận mạn, nhiễm độc, trong đó có thể do dùng một số thuốc như Streptomycin.
Dây số IX: hay dây TK thiệt hầu.
Xuất phát từ rãnh bên hành não, đi vào khoang hầu. Vận động các cơ vùng hầu, cảm giác 1/3 sau lưỡi. Không bao giờ bị liệt riêng dây IX.
Dây số X: hay dây TK phế vị.
Là dây TK thực vật phó giao cảm lớn nhất của cơ thể, chi phối vận động, cảm giác hầu hết các phủ tạng ở ngực và ổ bụng (tim, phổi, tiêu hóa, tiết niệu, sinh dục). Thoát qua hộp sọ, 2 dây TK X xuống cổ, ngực và bụng. Ðến ngực, dây X tách ra 2 nhánh quặt ngược lên vận động dây thanh âm. Tổn thương dây X, bệnh nhân hay bị sặc thức ăn lỏng, nghẹn thức ăn đặc, liệt dây quặt ngược sẽ nói giọng khàn. Nguyên nhân tổn thương: có thể do các phẫu thuật vùng cổ, ngực, do khối u trung thất.
Dây XI: hay dây gai sống.
Xuất phát từ rãnh bên sau của hành não, chui qua hộp sọ, đi xuống phân nhánh, vận động cơ ức đòn chũm, cơ thang và cơ thanh quản. Tổn thương ở hành tủy thường liệt cả 3 dây IX, X, XI.
Dây số XII: hay dây hạ thiệt (dưới lưỡi).
Xuất phát từ rãnh trước hành não, chui qua nền sọ vào vùng hàm hầu, chi phối vận động các cơ ở lưỡi. Liệt dây XII, lưỡi sẽ đẩy sang bên lành khi thè lưỡi. Nguyên nhân do viêm màng não hay vỡ xương nền sọ.
Thực tế hay gặp tổn thương đơn độc một bên là các dây II, III, V, VI, VII, VIII, dây quặt ngược.
Việc điều trị phải tùy theo tổn thương và do bác sĩ chuyên khoa quyết định.