NHỮNG CÂU HỎI THƯỜNG GẶP VỀ BỆNH ALZHEIMER
BS. ĐÀO XUÂN DŨNG
(Theo Internet)
Alzheimer là một bệnh thoái hóa dần dần tổ chức não, làm suy giảm trí nhớ, khả năng suy nghĩ và biến đổi hành vi. Bác sĩ Alzheimer là người đầu tiên mô tả các triệu chứng của bệnh từ năm 1906 và từ đó đến nay đã có hàng triệu người được chẩn đoán là mắc bệnh này. Vì là một bệnh có diễn biến thoái hóa dần dần cho nên người bệnh thể hiện lúc đầu là chứng quên những việc vừa xảy ra hoặc những công việc đã quen thuộc. Bệnh có thể tiến triển nhanh chậm tùy từng người nhưng tổn thương não cuối cùng cũng dẫn đến tình trạng lú lẫn, biến đổi nhân cách, hành vi và khả năng suy xét. Khả năng giao tiếp cũng trở nên khó khăn vì bệnh phải vất vả để tìm ra từ để nói, để diễn đạt ý nghĩ hoặc để nghe lời. Cuối cùng thì người bệnh không còn khả năng săn sóc được cho chính mình.
Những dấu hiệu báo động ban đầu của bệnh (những ai chỉ thể hiện một vài dấu hiệu ban đầu của bệnh như sau đây cũng nên tìm đến thầy thuốc để được khám xét toàn diện).
1. Chứng quên: đôi khi quên một nhiệm vụ được giao phó, hạn cuối cùng của một việc gì đó, hoặc tên một người bạn thì là chuyện bình thường nhưng khi hay quên hoàn toàn một sự việc hoặc lẫn lộn không thể giải thích được thì có thể là dấu hiệu bất thường.
2. Gặp khó khăn khi làm một công việc quen thuộc. Ai cũng có lúc đãng trí, thí dụ khi luộc rau quá lâu hoặc không nhớ bày lên bàn một món ăn gì đó. Người bị chứng quên Alzheimer thì có thể đã chuẩn bị xong bữa ăn nhưng quên cả ăn hoặc quên hẳn mình đã thổi cơm rồi.
3. Nói năng chậm chạp, quên hẳn những từ đơn giản hoặc thay thế bằng từ khác không thích hợp làm cho câu nói của họ trở nên khó hiểu.
4. Mất định hướng về thời gian và không gian. Đôi khi quên một ngày trong tuần hoặc cái gì đó mình đang cần bày ở cửa hàng nhưng người bị chứng quên Alzheimer thì có thể quên cả con đường quen thuộc của mình, không còn biết mình ở đâu, làm sao mình đang ở nơi này, làm sao về được nhà.
5. Giảm khả năng suy tính, nhật xét. Người ta có thể quên không mang theo áo ấm trong một ngày gió rét nhưng người bệnh Alzheimer lại có thể ăn mặc kỳ cục đi ra phố hoặc mặc nhiều áo trong một ngày nóng nực.
6. Suy giảm khả năng suy nghĩ trừu tượng. Người bệnh Alzheimer không nhận ra được những con số hoặc không thể làm nổi một con tính đơn giản.
7. Để quên đồ vật. Ai cũng có lúc để quên chiếc chìa khóa hoặc ví tiền ở chỗ này hay chỗ khác rồi không nhớ nhưng người bệnh Alzheimer thì để quên đồ vật ở những nơi hoàn toàn không thích hợp với nó, ví dụ để bàn là vào tủ lạnh hoặc bỏ đồng hồ đeo tay vào hộp đường rồi không nhớ nữa.
8. Thay đổi tính khí hoặc hành vi. Người bình thường cũng có nhiều cảm xúc khác nhau tùy lúc nhưng người bệnh Alzheimer thì thay đổi tính khí quá thất thường mà chẳng vì lý do gì.
9. Thay đổi về nhân cách. Nhân cách có thể thay đổi ít nhiều theo tuổi tác nhưng người bệnh Alzheimer thì thay đổi đột ngột nhân cách, người vốn dễ tính bỗng trở nên hay nổi nóng, đa nghi hoặc nhút nhát.
10. Trở thành con người chán chường, không còn quan tâm đến việc gì nữa, kể cả những vẫn bình thường làm.
* Nguyên nhân gì gây ra bệnh? Hiện nay còn chưa rõ ràng. Tuổi tác và lịch sử gia đình có thể là những nguy cơ, có thể có vai trò của di truyền. Mỗi năm các nhà khoa học lại tìm ra những yếu tố quan trọng có thể là nguyên nhân gây bệnh giúp cho việc chẩn đoán và điều trị chính xác và tốt hơn.
* Bệnh được chẩn đoán như thế nào? Hiện nay có một thử nghiệm chắc chắn nào đề chẩn đoán là mắc bệnh Alzheimer mà chỉ chẩn đoán bằng cách loại trừ dần sau khi đã khám toàn diện về thực thể, tâm lý thần kinh và hỏi kỹ tiền sử bệnh. Cách duy nhất để chẩn đoán khẳng định bệnh là xác định tổn thương giải phẫu bệnh lý sau khi đã chết.
* Bệnh tiến triển như thế nào? Tổ chức não có cấu trúc bất thường, kết dính từng đám làm cho sự dẫn truyền giữa các tế bào thần kinh giảm đi. Vùng não chi phối trí nhớ gần có xu hướng bị tổn thương trước tiên sau đó lan ra những vùng chi phối trí tuệ và chức năng cơ thể. Bệnh diễn biến khác nhau ở mỗi người, được chia thành 3 giai đoạn: sớm, trung bình, muộn. Nhưng không xác định được hành vi đặc hiệu cho mỗi giai đoạn cũng như mỗi giai đoạn dài ngắn bao lâu.
* Bệnh có lây lan trong gia đình không? Rất hiếm, thường chỉ thấy một thành viên bị bệnh vào giai đoạn đã có tuổi.
* Người trẻ có bị bệnh không? Có nhưnh ít gặp. Có thể xảy ra ở tuổi 30-50 nhưng phần lớn ở tuổi trên 65. Thể bệnh gập ở người trẻ chỉ chiếm dưới 10%.
* Suy giảm trí nhớ có phải hệ quả tất yếu của tuổi tác không? Đúng và không. Nhiều người khỏe mạnh vẫn có thể quên điều gì đó khi có tuổi nhưng chứng quên của người bệnh Alzheimer lại kèm theo những khó khăn về giao tiếp, tu duy, suy xét và ảnh hưởng đến công việc, đời sống gia đình và xã hội. Vì đó là bệnh mà tế bào não bị hủy hoại.
* Thế nào là sa sút trí tuệ? Là trạng thái do nhiều nguyên nhân gây ra (do trầm cảm, do tác động của ma túy, do bệnh ở tuyến giáp... có thể phục hồi nếu phát hiện sớm), ngoài ra còn do một số bệnh khác gây nhiều tổn thương ở não thì không thể hồi phục.
* Có thuốc gì điều trị bệnh không? Hiện nay không có loại thuốc nào có thể chữa khỏi hẳn bệnh hoặc làm cho bệnh nhân ngừng phát triển. Có 2 thứ thuốc đã được FDA chấp nhận (cơ quan quản lý thực phẩm và thuốc của Mỹ) cho lưu hành nhưng chỉ có thể giảm nhẹ một số triệu chứng, đó là Donepezil và Tacrine. Đang nghiên cứu nhiều thứ thuốc mới khác, có thể vài năm tới sẽ có mặt trên thị trường. Thuốc và một số liệu pháp không dùng thuốc chỉ để giảm nhẹ những triệu chứng về hành vi như trầm cảm, mất ngủ và trạng thái lo âu, bứt rứt.
Có một loại thuốc mới hứa hẹn chưa được bệnh Alzheimer và những tổn thương ở não. Thuốc này có khả năng ngừng hãm hoạt động của một gien gây viêm và làm chết tế bào, từ đó ngăn ngừa tổn thương não do chấn thương hay do bệnh. Thuốc ảnh hưởng đến một loại protein có tên là COX-2 có ở khắp cơ thể và chịu tránh nhiệm về cảm giác đaau và hiện tượng viêm. COX-2 đã từng là mục tiêucủa các thuốc chống viêm khớp mang tên là thuốc ức chế COX-2 nhưng theo bác sĩ Nicolas Bazan, loại thuốc mới tác động tới protein nói trên ở ngay tại cấp gien. Với thuốc mới này, các nhà khoa học hi vọng có thể ngăn ngừa được các tổn thương não do chấn thương, do bệnh Alzheimer, đột quî, bệnh Parkinson và nhiều bệnh khác.