ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐỘNG KINH TRONG THỜI KỲ THAI NGHÉN
Tác giả : BS. NGUYỄN THẾ ANH
Lập gia đình và sinh con là việc rất quan trọng đối với phụ nữ. Riêng với nữ bệnh nhân động kinh, điều này càng có ý nghĩa bởi con cái còn đem lại cho họ niềm tin vào bản thân và cuộc sống, góp phần chiến thắng bệnh tật để hòa nhập vào cộng đồng xã hội. Tuy những nguy cơ mà bệnh nhân động kinh gặp phải trong thai kỳ nhiều hơn bình thường và việc điều trị cũng khó khăn hơn, nhưng kết quả vẫn khả quan trong phần lớn các trường hợp.
Mối liên quan giữa động kinh và thai nghén
Vấn đề di truyền: Trước khi quyết định có thai, người phụ nữ phải hiểu rõ nguy cơ di truyền có ở mọi thể động kinh, nhưng cũng không nên quá quan trọng hóa nguy cơ này trừ khi có các bệnh lý thần kinh đã được xác định rõ ràng là di truyền gen trội, ví dụ như u xơ thần kinh. Nguy cơ bị động kinh xảy ra ở 25% thế hệ con cái của những cặp vợ chồng mà cả hai đều bị động kinh toàn bộ, và thấp hơn nhiều nếu chỉ có bố hoặc mẹ bị động kinh. Tuy nhiên động kinh di truyền thường dễ điều trị hơn các thể động kinh khác.
Ảnh hưởng của thai kỳ đến bệnh động kinh?
Chỉ có khoảng 25% các trường hợp có tần số cơn động kinh tăng lên, đặc biệt là ở giai đoạn đầu và cuối của thai kỳ. Mặt khác, tình trạng có thai cũng ảnh hưởng đến sự chuyển hóa của các thuốc chống động kinh, do đó phải chú ý điều chỉnh liều lượng cho phù hợp.
Ảnh hưởng của bệnh động kinh đến thai nhi
Ngoài những nguy cơ liên quan đến người mẹ, các cơn co giật của mẹ sẽ làm thiếu ôxy cung cấp cho thai nhi, điều này rất có hại, thậm chí còn gây chết thai nếu cơn co giật kéo dài (trạng thái động kinh). Ngoài ra, các cơn giật còn có thể gây sẩy thai hoặc sinh non. Cũng phải kể đến một nguy cơ khác, đó là thai bị dị tật bẩm sinh. Nguyên nhân gây dị tật bẩm sinh có thể do nhiều yếu tố kết hợp như dùng thuốc chống động kinh, yếu tố di truyền, thiếu acid folic, thay đổi đáp ứng miễn dịch... Các dị dạng này thường hình thành trong vòng 2 tháng đầu của thai kỳ (giai đoạn hình thành tổ chức của thai), chủ yếu là dị dạng tim, xương; dị dạng sinh dục, gai đôi cột sống, hở hàm ếch... Trong các thuốc chống động kinh thì thuốc thuộc nhóm benzodiazepin (Valium, Clona-zepam, Rivotril) ít gây dị dạng thai nhi nhất, còn lại tất cả các thuốc khác đều có thể gây dị dạng ngang nhau, đặc biệt là khi điều trị phối hợp nhiều thuốc chống động kinh thì tỷ lệ thai bị dị dạng rất lớn.
Điều trị
Mục đích của điều trị bệnh động kinh trong thời kỳ mang thai là nhằm kéo dài thời gian không lên cơn co giật, đồng thời làm giảm ảnh hưởng của cơn động kinh đối với thai nhi và hạn chế tác dụng gây quái thai của thuốc chống động kinh.
Các bước điều trị tiến hành theo trình tự: Đầu tiên phải thông báo và giải thích rõ cho người mẹ tương lai hiểu tình trạng bệnh hiện tại và những nguy cơ có thể gặp trong suốt thai kỳ, giúp họ yên tâm hợp tác với thầy thuốc trong điều trị.
Trong tất cả các trường hợp, nếu có thể bác sĩ nên chuyển sang điều trị chỉ với một loại thuốc và phải kiểm soát nồng độ thuốc trong máu người mẹ. Khi người bệnh đang được điều trị bằng Valproat, Carbamazepin hoặc Trimethadion mà họ muốn có thai thì thay thế các thuốc trên bằng benzodiazepin cho đến hết tháng thứ hai của thai kỳ. Bắt buộc phải điều trị bổ sung bằng acid folic 4-5mg/ngày trong tháng thứ nhất của thai kỳ, đồng thời phải điều trị bổ sung vitamin K1 10mg/ngày kể từ tuần thứ 36 (tháng thứ 9) của thai kỳ để đề phòng hội chứng chảy máu ở trẻ sơ sinh do ảnh hưởng của các thuốc chống động kinh mà người mẹ dùng như Carbamazepin (Tegretol), Phenobarbital (Gardenal), Phenytoin (Sodan-ton). Ngoài ra, cần theo dõi sự phát triển của thai, đặc biệt là trong 3 tháng đầu. Riêng đối với bệnh nhân điều trị bằng thuốc nhóm Valproat (Depakine), phải định lượng Alphafoetoprotein bằng chọc nước ối khi thai được 6-7 tháng.
Một điểm cần chú ý nữa là ngoài việc khám thai định kỳ như bình thường, thai phụ phải được siêu âm vào tháng thứ nhất của thai kỳ để phát hiện sớm các dị dạng ống thần kinh và chỉ định phá thai. Điểm cuối cùng là việc nuôi con bằng sữa của người mẹ bị động kinh không hề gây tác hại gì mà còn cần phải khuyến khích. Nếu người mẹ được điều trị bằng các thuốc như phenolbarbital, primidon hoặc benzodiazepin liều cao có thể sẽ gây tác dụng an thần kinh cho trẻ sơ sinh, do đó phải cho trẻ bú xen kẽ với nuôi bột; để đảm bảo an toàn nên cho bệnh nhân dùng thuốc chống động kinh nhóm valproat trong giai đoạn cho con bú.