MỘT SỐ TIẾN BỘ TRONG ĐIỀU TRỊ AIDS
DS. NGUYỄN HỮU ĐỨC
Đã hơn 15 năm trôi qua kể từ khi phát hiện HIV, tác nhân gây bệnh AIDS, vẫn
chưa có sự kiện gì thật lạc quan trong lĩnh vực nghiên cứu tìm thuốc chữa bệnh
hữu hiệu căn bệnh nổi bật của cuối thế kỷ này. Ở các thế kỷ trước, việc nghiên
cứu tìm ra tác nhân gây bệnh rất khó khăn, phải mất hàng chục năm thậm chí hàng
trăm năm, nhưng khi tìm được tác nhân gây bệnh thì việc tìm ra thuốc chữa bệnh
khá dễ dàng. Đối với AIDS thì khác, việc nhận diện tác nhân gây bệnh khá nhanh,
chỉ sau hai năm ca AIDS đầu tiên được phát hiện, người ta đã xác định thủ phạm
là virus HIV. Nhưng cho tới nay, việc nghiên cứu tìm được thuốc trị liệu có hiệu
quả vẫn còn ở phía trước. Nếu nói rằng có tiến bộ trong điều trị thì tiến bộ đó
thể hiện ở chỗ từ không có thuốc ta có được một thuốc là AZT (Zidovudine,
Retrovir) và cho tới nay có khoảng 10 thuốc được chấp nhận dùng trong điều trị
và phải dùng phối hợp để chỉ kéo dài thêm cuộc sống của người bệnh chứ không
phải trị dứt bệnh.
Để hiểu rõ cơ chế tác động của các thuốc đang được dùng hiện nay để trị AIDS,
ta cần có một số hiểu biết về cấu trúc và cách sống của con HIV.
Khi HIV qua đường lây, xâm nhiễm vào máu của con người, nó sẽ gắn và xâm nhập
vào một loại tế bào bạch cầu có tên lympho-bào T gọi tắt là CD4. Khi đã xâm nhập
nằm bên trong tế bào CD4 rồi, HIV sử dụng các men (còn gọi là enzim) do chính nó
tiết ra để tạo các loại vật liệu giúp nó tăng trưởng và sinh sản. Có 2 loại men
rất quan trọng đối với HIV. Thứ nhất là men phiên mã ngược (tiếng
nước ngoài gọi là reverse trancriptase), đảm nhận việc sao chép mã di truyền cho
HIV sinh sản. Thứ hai là men phân giải đạm (protease) giúp HIV chế
tạo loại đạm nó cần. Nhờ sử dụng 2 loại men vừa kể: men phiên bản mã ngược và
men phân giải đạm, mà HIV từ một con nhân lên thành nhiều con HIV mới. Chính do
phải gánh chịu sự "ăn nhờ ở đậu" của HIV và nhất là gánh chịu quá trình nhiều
HIV mới mà các tế bào bạch cầu vốn có nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh
xâm nhập đã dần dần bị kiệt quệ và chết khiến cho khả năng đề kháng bệnh của cơ
thể bị suy giảm đưa đến hội chứng suy giảm miễn dịch, các mầm bệnh thừa cơ hội
tấn công gây nhiều chứng bệnh nguy hiểm dẫn đến cái chết.
Từ sự hiểu biết HIV như vậy đưa đến nhận định, nếu ta tìm cách ức chế tức tìm
cách làm cho tê liệt 2 loại men: men phân mã ngược và men phân giải đạm,
hy vọng sẽ làm cho HIV không phát triển, sinh sôi được nữa và sẽ cải thiện được
tình trạng bệnh.
Cho tới hiện nay, có 2 nhóm thuốc được sử dụng để điều trị HIV/AIDS dựa vào
cách chống lại HIV như đã trình bày ở trên. Hai nhóm thuốc đó như sau:
1. Thuốc ức chế men phân mã ngược:
gồm các thuốc có tên thường được viết tắt. Như AZT (Zidovudine, Retrovir) là
thuốc đầu tiên được thừa nhận trị AIDS và vẫn còn được sử dụng cho tới nay.
Ngoài ra còn có ddI (Didanosine, Videx), ddC (Zalcitabine, Hivid), d4T
(Stavudine, Zerit), 3TC (Lamivudine, Epivir).
2. Thuốc ức chế men phân giải đạm
(ức chế protease): là thuốc mới được tìm ra trong vài năm gần đây. Gồm có:
Indinavir (Crixivan), Ritonavir (Norvir), Saquinavir (Invirase), Nelfinavir
(Viracept).
Từ khi có nhiều thuốc được tìm ra, người ta không điều trị một thuốc nữa
(trước đây chỉ điều trị bằng một thuốc duy nhất là AZT) mà phải phối hợp nhiều
thuốc.
Trước khi có thuốc ức chế protease, để tăng tác dụng của AZT cũng như hạn chế
tình trạng HIV đề kháng AZT, người ta phối hợp AZT với một thuốc ức chế men
phiên mã ngược khác như phối hợp AZT với ddI, AZT với ddC, và AZT với 3TC.
Hiện nay, với sự xuất hiện thuốc mới là các thuốc ức chế protease, phác đồ
điều trị bệnh AIDS là phối hợp 3 thuốc gọi là trị liệu bộ ba, gồm
có hai thuốc ức chế men phiên mã ngược phối hợp với một thuốc ức chế protease.
Thí dụ như phối hợp AZT chung với ddI và Indinavir, hoặc d4T phối hợp với 3TC và
Indinavir.
Hiện nay, người ta vẫn còn sử dụng phác đồ dùng 1 thuốc duy nhất là AZT. Đó
là trường hợp phụ nữ mang thai nhiễm HIV được cho dùng AZT để tránh tình trạng
lây nhiễm từ mẹ sang con.
Ta cần lưu ý là ngay cả phác đồ điều trị mới nhất là phác đồ điều trị bộ ba,
kết quả điều trị chỉ ở mức rất khiêm nhường, chỉ làm giảm một số triệu chứng,
làm bệnh chậm tiến triển, kéo dài thêm thời gian sống của người bệnh chứ chưa
thể gọi là trị khỏi bệnh. Tất cả các thuốc sử dụng đều gây tác dụng phụ, có khi
rất trầm trọng như gây thiếu máu, giảm bạch cầu, viêm tụy cấp v.v... Vấn đề gây
khó khăn không ít trong điều trị, đặc biệt đối với các nước đang phát triển như
nước ta, là chi phí dùng thuốc rất cao. Phác đồ điều trị bộ ba hiện nay chỉ áp
dụng ở các nước tiên tiến, chi phí có thể lên đến 15.000 USD mỗi năm cho một
người bệnh. Ở ta hiện nay, điều trị bệnh AIDS chủ yếu vẫn là AZT và không phải
tất cả người nhiễm đều có điều kiện được dùng.
Cho tới nay chưa có thuốc chống HIV, trị bệnh AIDS một cách hữu hiệu nhưng
vẫn có hiện tượng một số người không có chuyên môn gì lại tuyên bố tìm được biện
pháp hoặc phương thuốc trị dứt bệnh AIDS. Biện pháp hoặc phương thuốc đưa ra
thường không có cơ sở khoa học, có khi mang tính chất hoang tưởng nhưng cũng có
khi mang tính chất lừa đảo khiến một số người bệnh tiền mất tật mang. Hiện tượng
này không chỉ xảy ra ở các nước đang phát triển mà còn xảy ra ở các nước tiên
tiến và được nhà chức trách các nước ấy gọi là hiện tượng "lang băm".
Trong lĩnh vực nghiên cứu tìm thuốc chủng ngừa AIDS, người ta cũng không đạt
điều gì khả quan hơn so với lĩnh vực nghiên cứu tìm thuốc chống AIDS. Tất cả các
vaccin phòng ngừa AIDS đã được nghiên cứu thử nghiệm cho tới nay chưa chứng tỏ
hữu hiệu. Nguyên tắc của việc điều chế vaccin là người ta dùng mầm bệnh chết
hoặc sống nhưng làm cho hết độc hoặc dùng một phần mầm bệnh (như dùng lớp vỏ
ngoài của HIV chẳng hạn) để bào chế vaccin và đưa vào cơ thể ta. Nhờ thế, cơ thể
ta nhận diện được mầm bệnh để khi nhiễm mầm bệnh thật, cơ thể sẽ chống trả có
hiệu quả, tiêu diệt mầm bệnh. Riêng HIV là con virus rất biến hóa, nó thường
xuyên biến đổi hình dạng. Các vaccin được nghiên cứu bào chế từ một số HIV vào
lúc này không giúp cơ thể ta nhận biết để chống trả những con HIV đã thay đổi
hình dạng vào lúc khác một cách hữu hiệu.
Có cái nhìn khái quát về bối cảnh nghiên cứu tìm thuốc chữa và ngừa AIDS như
đã trình bày ở trên để ta tiếp tục có sự cảnh giác đúng mức về HIV/AIDS. Ta vẫn
phải nhận thức rằng: "AIDS là nguy hiểm bởi vì chưa có thuốc chữa và ngừa hữu
hiệu". Biện pháp phòng chống AIDS tốt nhất là có sự hiểu biết đúng đắn về
AIDS, tích cực phòng bệnh, sử dụng bao cao su đúng cách và có cuộc sống thủy
chung một vợ một chồng.