BỆNH OSGOOD SCHLATTER: BỆNH LÝ GÂY NHEI62U TRANH CÃI
Nguyễn văn Công, Nguyễn Thiện Hùng. Nguyễn Ngọc Khôi
Trung tâm Y khoa Medic
Về mặt lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh, bệnh Osgood Schlatter không khó chẩn đoán vì với tiền sử chấn thương của trẻ khoãng 10 đến 15 tuổi, hiếu động, thường nam nhiều hơn nữ, có phù nề và đau vùng lồi củ chày trước.
HI: Phần mềm ở lồi củ chày trước chân trái sưng to.
HIIa và HIIb:Trên phim X quang qui ước:
- Phù nề phần mềm trườc vùng lồi củ chày
- Tách rời, phân mảnh vùng lồi củ chày
Siêu âm phần mềm vùng lồi củ chày trước cho thấy có phù nề mô dưới da, phù nề dây chằng bánh chè nơi bám tận vào lồi củ chày trước, đôi khi thấy các vết vôi hóa trong dây chằng và mất liên tục vỏ xương ở lồi củ chày trước.
HIII: Siêu âm vùng lồi củ chày trước chân phải: phù nề dây chằng bánh chè, có vôi hóa trong dây chằng và gián đoạn vỏ xương ở lồi củ chày trước.
Nhưng vấn đề rắc rối lại là xác định nguyên nhân bệnh lý này.
Thoạt đầu, bệnh lý trên được phân vào nhóm bệnh viêm đầu sụn xương người trẻ (osteochondrosis) hay hoại tử xương. Nhưng sau đó nhiều tác giả như Caffey không đồng ý với nhận định này, vì họ nhận xét trong bệnh sử luôn luôn có ít hay nhiều chấn thương và đứa trẻ lúc nào cũng đau, phù nề vùng lồi củ chày trước. X-quang lại thấy mất liên tục vùng xương chày có dạng tách rời, do đó đã nghĩ nhiều đến gãy rứt (avulsion fracture) lồi củ chày trước.
Ðến năm 1990, nhiều tác giả lớn vẫn đưa ra hai giả thuyết khác nhau về bệnh lý này. Tachdjian chủ trương nguyên nhân chính là do chấn thương thường xuyên vùng gắn dây chằng xương bánh chè gây ra viêm dây chằng và các mãnh cốt hóa là thứ phát. Trong khi Ogden lại cho rằng gãy rứt của điểm cốt hóa lồi củ chày trước là nguyên nhân của bệnh Osgood Schlatter. 2 quan niêm trên dẫn đến 2 cách điều trị khác nhau, gãy rứt thì cần phải bất động xương 6 tuần. Còn viêm dây chằng bánh chè thì chỉ cần điều trị với steroids.
Ðể trả lời nghi vấn này, người ta đã dùng những phương tiện tối tân nhất như cắt lớp điện toán, cộng hưởng từ và xạ hình xương để khảo sát 28 khớp gối của 21 bệnh nhân có bệnh Osgood Schlatter trước và sau điều trị.
Các phương pháp cộng hưởng từ và cắt lớp điện toán tỏ ra hữu hiệu trong việc định bệnh, trong khi xạ hình xương không có giá trị chẩn đoán. Dấu bệnh lý là phù nề dây chằng, giãm đậm độ trên CT scan và tăng tín hiệu trên MRI, bao khớp dưới xương bánh chè sâu và nông đều căng. Thay đổi của sụn xương gồm phì đại không đều đầu xương chày, phù tuỷ xương, và có mảnh xương trong dây chằng và có ảnh khuyết xương vùng đầu xương. Sau điều trị các dấu hiệu bệnh lý trên có giảm và đa số đều hết đau.
Dấu viêm dây chằng bánh chè hiện diện 100%, mảnh xương rời chỉ có 32%. Do đó kết luận là Bệnh Osgood Schlatter đại đa số do viêm dây chằng trong khi gãy rứt chỉ khoãng 1/3 và không là nguyên do chính gây nên bệnh lý này.
HIV: Sang thương ở chỗ bám vào lồi củ chày trước của dây chằng bánh chè có cường độ tín hiệu thấp trên T1W1 và cao trên T2W2.
Tại Việt nam siêu âm có giá trị nhất định trong chẩn đoán bệnh lý này với những ưu điểm sẵn có như giá rẻ, tin cậy được và nhất là khảo sát động. Cùng với X-quang và lâm sàng, trong điều kiện không làm được cộng hưởng từ, siêu âm phần mềm vùng lồi củ chày trước góp phần đánh giá hiệu quả tình trạng dây chằng bánh chè, phần mềm xung quanh.
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Caffey J. (1961): Section 4.Congenital Dislocation of the hip. In Pediatric X-Ray Diagnosis. 4 th ed. Chicago: Year Book Medical Publishers.; 665-675.
2.Zehara S. Rosenberg. Nuclear Medicine, CT and MR Imaging. Features of Osgood-Schlatter Lesion. Fracture or Tendinitis Radiology (Selected Reports from RSNA Scientific Program. 78th Scientific Assembly and Annual Meeting 1992)