HÌNH ẢNH SIÊU ÂM MỘT TRƯỜNG HỢP U TẾ BÀO GAN NGUYÊN PHÁT SAU THUYÊN TẮC HOÁ DẦUQUA ỐNG THÔNG TOCE 4 THÁNG
NGUYỄN THIỆN HÙNG
Trung tâm Y khoa MEDIC
Thành phố Hồ Chí Minh
Thường theo dõi diễn tiến điều trị u gan bằng CT scan sau làm thuyên tắc hóa dầu qua ống thông TOCE (transcatheter oil chemoembolization). Tuy nhiên nhân một trường hợ có siêu âm theo dõi trước và sau tiến hành thủ thuật TOCE trong 4 tháng, chúng tôi xin trình bày một số hình ảnh siêu âm thu thập được:
1/ Trước khi làm TOCE:
AFP= 128ng/mL, khối u đặc echo kém có mạch máu, truyền âm nhẹ phía sau, ở hạ phân thùy (hpt) 6, kích thước 43x 39 mm.
2/ Sau TOCE 1 tháng:
AFP = 14ng/mL, khối u đặc echo kém, không còn ảnh điểm, mất truyền âm nhẹ phía sau, lại cản âm tạo bóng lưng dơ, kích thước chưa thay đổi. Bệnh nhân sụt 05kg thể trọng, ăn kém (Hình 1a và b).
3 Sau TOCE 3 tháng:
AFP = 27 ng/mL, men gan GOT= 57UI/mL, GPT = 62UI/mL, khối u hoàn toàn biến mất thay vào đó là một nang 50mmx 43mm, đường viền mỏng, không cặn, có echo trong lòng ít, có tăng âm sau, dạng như áp xe cũ nang hóa (Hình 2).
4. Sau TOCE 4 tháng:
AFP = 70ng/mL, nang gan P ở hpt 6 nhỏ lại 23, 5 x 19,9mm, bệnh nhân khỏe. sinh hoạt bình thường, ăn tốt, tăng lại 05 kg (Hình 3).
BÀN LUẬN:
-
TOCE là phương pháp hỗ trợ, làm giảm kích thước u, kềm hảm tốc độ phát triển của u, kéo dài thời gian sống thêm. Theo Yamada khả năng sống thêm ở bệnh nhân làm TOCE sau 1, 2, 3 năm là 44%, 29% và 15%.
-
Phương pháp TOCE có thể thực hiện cho những trường hợp quá chỉ định mổ nhưng không làm cho xơ gan giai đoạn cuối (Child-Pugh C ), có huyết khối tĩnh mạch cửa, di căn ngoài gan...
-
Theo dõi sau làm TOCE: Thường chụp mạch xóa nền DSA ngay để xác định nhánh động mạch cần thuyên tắc đã cắt cụt hoàn toàn.
Nồng độ AFP thường giảm sau TOCE, có thể dùng theo dõi tiến triển u gan sau TOCE. Tuy nhiên nếu trường hợp bệnh nhân u gan nguyên phát không tăng AFP thì không dựa vào nồng độ AFP được.
Theo dõi kích thước u bằng CT xoắn ốc có cản quang tìm dấu hiệu ngấm Lipiodol, tổn thương tăng quang, tổn thương phụ, hạch di căn. Thường thời điểm tái khám cho CT là mỗi 3 tháng và siêu âm hàng tháng.
-
Yếu tố tiên lượng tốt khi u nhỏ, có vỏ bao (halo), nhiều mạch máu tân sinh và sau TOCE u ngấm Lipiodol nhiều và đồng nhất. Tại bệnh viện Chợ Rẫy, tỉ lệ thành công chung làm hoại tử u gần hoàn toàn (không còn mạch máu tân sinh trong u khi kiểm tra bằng CT scan có cản quang) là 29% [86 lượt TOCE cho 58 trường hợp]. TOCE có vẻ có hiệu quả cao trong trường hợp u đơn độc và dưới 6 cm.
-
Siêu âm có thể dùng như một phương tiện theo dõi diễn tiến hoại tử u sau TOCE, phụ trợ bên cạh CT scan xoắn ốc trong hoàn cảnh thực tế Việt nam.
Tài liệu tham khảo:
-
Nakagawa: Transcatheter oil chemoembolization for HCC, Interventional Radiology, 138-158, 3rd ed. William & Wilking, 1999.
-
Hội thảo Các biện pháp mới trong chẩn đoán và điều trị u gan, Bệnh viện Chợ Rẫy, 9/2000, TP Hồ Chí Minh.
-
Yamada: Hepatic Artery Chemoembolization and Infusion Chemotherapy in Interventional Radiology, Ilchokak 1999, 7:75-95.