Mê tín và khoa học trong lựa chọn giới tính thai
Con người đã tìm cách tác động đến giới tính của thai từ thời cổ với những biện pháp thiếu cơ sở khoa học. Chẳng hạn muốn sinh con trai thì thắt ống dẫn tinh bên trái (vì tin rằng tinh hoàn bên trái tạo ra tinh trùng sinh con gái).
Dân gian còn cho rằng, để sinh con trai, vợ phải nằm ngủ ở phía bên phải chồng.
Ngoài ra, các biến đổi của tự nhiên cũng được coi là yếu tố ảnh hưởng đến việc
sinh trai hay gái… Ngày nay, với những tiến bộ về khoa học, người ta đã đưa ra
nhiều biện pháp lựa chọn giới tính thai khá chính xác và hiệu quả.
Ở con
người, tinh dịch lúc quan hệ tình dục mang đồng thời 2 loại tinh trùng, một loại
mang nhiễm sắc thể X (sinh con gái) và loại kia mang nhiễm sắc thể Y (sinh con
trai). Ở nữ, môi trường tử cung cũng ảnh hưởng đến việc thụ thai trai hay gái.
Việc các gia đình sinh con một bề có thể liên quan đến môi trường tử cung
toan/kiềm của người mẹ hay tình trạng tinh dịch của người bố (có quá nhiều tinh
trùng mang nhiễm sắc thể X hay Y).
Ngày nay, kỹ thuật sinh sản đã cho phép các cặp vợ chồng lựa chọn
giới tính thai với độ tin cậy cao hơn, bao gồm:
Sử dụng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo: Lấy trứng cho thụ tinh với
tinh trùng để tạo ra phôi, sau đó phân tích nhiễm sắc thể của phôi
để biết giới tính; chọn phôi phù hợp để cấy vào tử cung người mẹ.
Lựa chọn tinh trùng mang nhiễm sắc thể X hay Y: Tinh trùng X có
kích thước to hơn, nặng hơn và bắt màu với thuốc nhuộm huỳnh quang
nhiều hơn. Sau khi ly tâm, vì nặng hơn nên tinh trùng X ở phần đáy
ống nghiệm, còn tinh trùng Y nhẹ hơn nên ở phần giữa của ống nghiệm.
Đó là kỹ thuật do bác sĩ Ronald J.Ericsson thực hiện và đã được áp
dụng tại nhiều trung tâm sinh sản ở Mỹ. Năm 1975, Ronald J. Ericsson
bắt đầu nghiên cứu về vấn đề này, sau đó đã tách được tinh trùng X
và Y đem thụ tinh cho trứng để có giới tính con theo ý muốn.
Phương pháp tự nhiên của BS. Landrum Shettles (Mỹ): Là phương
pháp thường được áp dụng nhất và có hiệu quả nhất. Tinh trùng mang Y
thường nhỏ hơn, di chuyển nhanh hơn nhưng không tồn tại lâu như tinh
trùng mang X. Do đó, “quan hệ” càng gần ngày rụng trứng thì khả năng
sinh con trai càng cao. Nếu “quan hệ” 2-4 ngày trước khi rụng trứng,
sẽ có nhiều khả năng sinh con gái. Nhiều cặp vợ chồng đã áp dụng
phương pháp này để sinh con trai hay gái theo ý muốn và tỷ lệ thành
công đạt đến 75%. Phương pháp này đòi hỏi phải xác định đúng ngày
rụng trứng.
Một số cách xác định ngày rụng trứng:
Theo dõi chất nhầy cổ tử cung hằng ngày: Ngay trước khi rụng
trứng, niêm dịch cổ tử cung rất lỏng và dính, giống như lòng trắng
trứng. Quan sát niêm dịch cổ tử cung trong 1-2 tháng sẽ giúp người
phụ nữ phán đoán ngày rụng trứng chính xác hơn.
Theo dõi
biểu đồ nhiệt độ cơ thể: Kết hợp với theo dõi chất nhầy cổ tử
cung để biết rõ ngày rụng trứng.
Sử dụng bộ dụng cụ dự
đoán rụng trứng: Việc lựa chọn giới tính đã được thương mại hóa
ở nhiều nước. Nhiều công ty quảng cáo về những bộ dụng cụ giúp sinh
con theo giới tính mong muốn, rất hấp dẫn khách hàng. Ví dụ bộ
GenSelect có 2 loại, một để sinh con trai và một để sinh con gái,
gồm những chi tiết sau: sách hướng dẫn sử dụng về các bước tiến
hành, dụng cụ dự đoán ngày rụng trứng, nhiệt kế kỹ thuật số để xác
định rụng trứng, dung dịch thụt rửa âm đạo sau giao hợp, thuốc đặc
hiệu cho mỗi lần giao hợp, bảng theo dõi nhiệt độ cơ thể, những
khuyến cáo về ăn uống... Giá mỗi bộ khá đắt, tới 199 USD và chỉ dùng
cho một chu kỳ rụng trứng. Đã có những dữ liệu chứng minh 80% số cặp
vợ chồng thụ thai trong vòng 3 tháng, nếu sử dụng đúng thì hiệu quả
đạt đến 96%.
Một số thày thuốc dùng kỹ thuật siêu âm để theo
dõi nang noãn trưởng thành trong tuần lễ trước phóng noãn, để từ đó
xác định ngày rụng trứng và tư vấn các cặp vợ chồng có thời điểm
“quan hệ” thuận lợi để sinh con theo ý muốn.
Chỉ xác định giới tính thai vì lý do bệnh lý
Có một số bệnh liên quan đến gien của nhiễm sắc thể giới tính, tác
động đến thai trai nhiều hơn thai gái, ví dụ như bệnh dễ chảy máu
(hemophilia), bệnh teo cơ Duchenne (thể hay gặp và nặng nhất trong
các bệnh teo cơ), hội chứng Lech-Nyhan và bệnh trì độn tâm trí di
truyền. Khi các cặp vợ chồng có nguy cơ sinh con bị những bệnh nói
trên thì cần tìm phương pháp để có thể sinh con gái.
Nhiều
nhà khoa học cho rằng việc lựa chọn giới tính thai là không hợp pháp
vì gây mất cân bằng cơ cấu dân số. Chẳng hạn như Trung Quốc sau khi
ban hành chính sách “mỗi gia đình chỉ có một con” đã xảy ra sự mất
cân bằng giới vì người dân thường thích con trai. Hậu quả là nam
nhiều hơn nữ, khiến nam giới khó lấy vợ.
Đạo lý của việc lựa chọn giới tính thai đến nay vẫn là vấn đề chưa được giải quyết thống nhất, có nhiều ý kiến ủng hộ và chống đối, trong đó nỗi sợ lớn nhất là nguy cơ gây mất cân bằng dân số. Hơn nữa, mỗi nền văn hóa, mỗi chủng tộc, tôn giáo... lại có sở thích riêng về giới tính. Ngày nay, ở các nước phát triển, nơi có thể dễ dàng tiếp cận với các phương pháp lựa chọn giới tính thai, đa số các cặp vợ chồng không có sự thiên vị đối với giới tính của đứa con đầu lòng.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)