Những câu chuyện về cho - nhận tinh trùng
Trứng đã thụ tinh về tử cung để làm tổ. |
Ca cho nhận tinh trùng đầu tiên được ghi nhận năm 1884 tại trường Y Jefferson (Anh). Mẫu tinh trùng của một sinh viên “đẹp trai nhất lớp” đã được dùng thụ thai cho vợ một thương gia, ông này vô sinh do không có tinh trùng. Bà đã sinh một bé trai.
Điều trị vô sinh bằng tinh trùng của người cho là kỹ thuật chữa hiếm muộn lâu đời nhất trong lịch sử loài người. Nó cũng được xem là kỹ thuật thành công và được áp dụng nhiều nhất từ trước đến nay. Hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhưng phương pháp này vẫn có vị trí không thể thay thế.
Trường hợp kể trên là ca cho nhận tinh trùng thành công đầu tiên
được ghi nhận trong sách vở. Một số người cho rằng kỹ thuật này đã
bắt đầu được thực hiện tại Pháp trước cả năm 1884. Tuy nhiên, đến
tận năm 1990, vẫn không ai biết được số trường hợp cho nhận tinh
trùng hằng năm cũng như số trẻ được sinh ra từ kỹ thuật này.
Thông tin về các vụ cho nhận tinh trùng được giữ kín. Cả bác sĩ lẫn
bệnh nhân đều cảm nhận được đây không phải là một phương pháp trị
liệu bình thường, ảnh hưởng của nó không chỉ trong vài tháng, vài
năm mà có thể kéo dài cả nhiều thế hệ. Họ đồng ý “quên đi” nguồn gốc
từ bên ngoài của đứa con, cho rằng nếu chuyện lộ ra sẽ ảnh hưởng đến
gia đình và đứa trẻ. Suốt một thời gian dài, phương pháp này được
thực hiện trong bóng tối, là sự thỏa thuận ngầm giữa gia đình người
bệnh và thầy thuốc. Đứa trẻ sinh ra mặc nhiên được xem là người con
hợp pháp của cha mẹ nó. Bệnh nhân được giải phóng khỏi mặc cảm hiếm
muộn, đứa trẻ không phải bận tâm về nguồn gốc của mình, xã hội yên
ổn vì dường như mọi người đều hạnh phúc... Nhưng có phải tất cả đều
thực sự êm xuôi?
Chuyện của
những gia đình điều trị vô sinh bằng cho nhận tinh trùng
Chuyện của Bill Cordray: “Cha dường như luôn xa cách tôi, bởi
thế tôi cũng giữ khoảng cách với ông vì nghi ngờ ông không phải là
cha ruột của mình. Cuối cùng, tôi phải hỏi thẳng mẹ rằng mình có
phải là con ngoài giá thú của mẹ với người khác không, và biết được
rằng mình ra đời qua kỹ thuật cho nhận tinh trùng. Nếu biết sớm hơn,
tình cảm tôi dành cho cha đã không như vậy. Một lần nọ, tôi nghe
giới thiệu về chương trình cho nhận tinh trùng trên trên đài. Người
trình bày nói đủ chuyện về độ bảo mật tuyệt hảo của chương trình,
rằng không bao giờ có khả năng người cho và đứa bé sinh ra gặp nhau.
Tôi thấy nóng mặt, vậy những người như tôi không có ý nghĩa gì cả
sao? Nếu tôi muốn tìm lại “cha” của tôi thì ai cấm được?".
Chuyện của Eck - Menning: “Phải thú nhận rằng tôi vẫn băn khoăn
về huyết thống dù đã có hai đứa con dễ thương qua cho nhận tinh
trùng. Chắc bạn cũng hiểu cảm giác hụt hẫng của tôi khi nghĩ rằng
dòng họ mình đến đời tôi là chấm hết. Đừng hiểu lầm tôi! Không phải
tôi không yêu bọn trẻ. Tôi dám thề rằng tôi sẽ không thể sống thiếu
chúng; nhưng nếu có cơ hội sinh ra đứa con bằng chính máu thịt của
mình thì tốn kém bao nhiêu tôi cũng sẵn lòng!”.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, không nên cho người hiến tinh trùng biết về người nhận và cả kết quả điều trị. Nếu biết tinh trùng của mình đã tạo được một đứa trẻ, rất nhiều khả năng là trong tương lai, người hiến muốn tìm lại đứa trẻ ấy. Khả năng ấy càng cao nếu ông ta không có con, hoặc đứa con sớm qua đời. Đây là quan điểm của hầu hết mọi người. Nhưng quan niệm này đang dần được thay đổi khi có thêm nhiều khảo sát về người hiến. Theo đó, họ thực sự mong muốn biết được thông tin lâu nay vẫn bị giấu kín, và có thái độ tích cực trong trường hợp được biết thông tin này.
Có một điều gì đó hơi bất công đối với người cho tinh trùng. Những
người hiến máu hoặc nội tạng được mọi người tôn vinh, trân trọng.
Nhưng chưa ai từng giới thiệu rằng ông Y, ông Z... là người đã đóng
góp cho xã hội những đứa trẻ khỏe mạnh bằng cách cho đi tinh trùng
của chính mình. Xu hướng hiện nay là chủ động nhìn nhận vấn đề theo
cả ba hướng từ người nhận, người cho và đứa trẻ, nhằm đưa ra những
quy định và chính sách thỏa mãn quyền lợi hợp pháp của cả ba nhóm
đối tượng này.
Kỹ thuật cho nhận tinh trùng không thể thực
hiện được nếu không có vai trò trung gian của nhân viên y tế.
Có một thời gian, nhân viên y tế hoặc sinh viên y khoa đã đóng vai
trò người cho tinh trùng. Y văn cũng ghi nhận, một vài bác sĩ
đã sử dụng tinh trùng của mình cho tất cả bệnh nhân tại phòng khám
ông ta làm việc.
Thay lời kết
Một cặp vợ chồng sống với nhau thật hạnh phúc nhưng hiếm con. Sau một thời gian chạy chữa, người ta mới phát hiện ra nguyên nhân là chồng không có tinh trùng. Không muốn chồng mang tiếng đại bất hiếu (theo quan niệm Á Đông, không có con trai nối dõi là điều bất hiếu lớn nhất), người vợ tự mình “liên hệ” và sinh được đứa con trai. Ngoài hai vợ chồng, không ai trong gia đình biết chuyện. Cậu bé được đặt tên là Tự Lực... Không cần nói ra, ai cũng biết người vợ đã phải trăn trở, người chồng đã phải nhẫn nhục thế nào để có được đứa con ấy.
Con cái như một chất keo nối kết người chồng và người vợ. Nếu không có con, họ chỉ là hai người lạ sống chung dưới một mái nhà. Với trẻ sinh ra qua cho nhận tinh trùng, mối liên hệ giữa chúng và người cha xuất phát từ ông ta với người vợ. Bởi thế, với người cha, đứa trẻ ấy luôn có phần thua sút so với đứa con được sinh từ tinh huyết của mình.
Không ai có khả năng chọn cha mẹ cho mình. Vì vậy, sẽ là lỗi của người lớn nếu chọn cho chúng một gia đình khiếm khuyết hoặc bất thường. Nói cách khác, quyền lợi của trẻ sinh ra từ cho nhận tinh trùng cần được đảm bảo trước khi chúng ra đời, để chúng có một cuộc sống bình thường và phát triển như mọi đứa trẻ khác trong xã hội.
BS Đỗ Quang Minh, Sức Khỏe & Đời Sống